Di chứng hậu COVID-19 khiến nhiều người lo lắng, trong đó có đột quỵ. Vậy làm thế nào để phòng ngừa đột quỵ hậu COVID-19.
1. Nguyên nhân đột quỵ hậu COVID-19?
Nhiều bệnh nhân COVID-19 sau khi đã khỏi bệnh có thể gặp các di chứng cục m.áu đông, nguyên nhân dẫn đến đột quỵ, nhồi m.áu cơ tim, thuyên tắc phổi. Một năm sau mắc COVID-19, nguy cơ mắc đột quỵ giảm rõ rệt nhưng vẫn cao hơn ở bệnh nhân có t.iền sử nhiễm COVID-19 trước đó.
Nguyên nhân đột quỵ hậu COVID-19 là do:
Tăng phản ứng viêm, dẫn đến tình trạng viêm mạch m.áu não. Gây ra tình trạng tăng đông, dẫn đến sự hình thành huyết khối trong hệ động mạch, hệ tĩnh mạch và các cơ quan. Thuyên tắc huyết khối ngược dòng, đặc biệt trên bệnh nhân còn tồn tại lỗ bầu dục PFO (là một lỗ nằm giữa tâm nhĩ trái và phải -buồng trên của tim).
Ngoài ra, việc nhiễm COVID-19 có thể gây co thắt mạch m.áu, tăng huyết áp dẫn đến xuất huyết não.
Nhiều bệnh nhân bị tổn thương mạch m.áu do phản ứng miễn dịch kéo dài trong mạch m.áu sau khi hồi phục COVID-19.
2. Dùng thuốc kháng đông dự phòng đột quỵ ở bệnh nhân COVID-19 khi nào?
Mặc dù cơ chế gây đột quỵ của COVID-19 liên quan rất nhiều đến việc hình thành huyết khối gây thuyên tắc mạch m.áu, tuy nhiên không chứng minh được lợi ích của việc sử dụng thường quy thuốc kháng đông hoặc thuốc kháng kết tập tiểu cầu trên bệnh nhân nhiễm COVID-19 nhằm mục đích dự phòng đột quỵ.
Trên bệnh nhân nhiễm COVID-19 sau xuất viện, có nguy cơ thuyên tắc tĩnh mạch cao, nghiên cứu cho thấy lợi ích của rivaroxaban trong việc làm giảm các biến cố thuyên tắc tĩnh mạch, mà không làm tăng các biến cố xuất huyết. Ngoài ra, việc sử dụng heparin trong lượng phân tử thấp cũng có thể làm giảm đáng kể nguy cơ thuyên tắc phổi và hệ thống ở bệnh nhân nhiễm COVID-19 nặng hoặc thở máy. Do đó, có thể cân nhắc chỉ định kháng đông trên các đối tượng phù hợp.
Tuy vậy, trong giai đoạn cấp, trên những bệnh nhân đột quỵ mức độ nặng (nhồi m.áu não diện rộng), việc sử dụng thuốc kháng đông hoặc kháng kết tập tiểu cầu cần phải cân nhắc đến nguy cơ chuyển dạng xuất huyết trong ổ nhồi m.áu.
3. Dự phòng đột quỵ hậu COVID-19 thế nào?
3.1. Biện pháp không dùng thuốc
Để tránh đột quỵ hậu COVID-19, bệnh nhân cần thực hiện lối sống lành mạnh:
– Tập thể dục phù hợp, ít nhất 30 phút/ngày: Đi bộ, đạp xe, cầu lông…
– Ngủ đủ giấc (7-8 tiếng/ngày).
– Không thức quá khuya.
– Hạn chế uống rượu, bia…
– Bỏ t.huốc l.á.
– Có chế độ dinh dưỡng lành mạnh: Giảm chất béo, ít đạm, bột đường, đồ ăn cay nóng, chiên xào, tăng rau xanh, hoa quả tươi….
– Uống đủ lượng nước mỗi ngày (2-2,5 lít).
3.2. Biện pháp dùng thuốc
Những bệnh nhân hậu COVID-19 được xem là nhóm nguy cơ cao bị đột quỵ khi đang đồng thời có nhiều yếu tố nguy cơ khác, như: Tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa lipid, rung nhĩ, hút thuốc, béo phì…
Cho đến nay, việc phòng ngừa đột quỵ tiên phát trên bệnh nhân hậu COVID-19 chỉ bao gồm việc kiểm soát chặt các yếu tố nguy cơ. Chưa có bằng chứng cho thấy hiệu quả của thuốc kháng đông, hoặc kháng kết tập tiểu cầu trong phòng ngừa đột quỵ.
Chưa có bằng chứng cho thấy hiệu quả của thuốc kháng đông, hoặc kháng kết tập tiểu cầu trong phòng ngừa đột quỵ tiên phát.
3.3. Lưu ý khi dùng thuốc
– Với các bệnh nhân đã bị đột quỵ và đồng thời nhiễm COVID-19, việc sử dụng kháng đông hoặc kháng kết tập tiểu cầu nên được duy trì (theo chỉ định của thầy thuốc). Việc lựa chọn sẽ tuỳ thuộc vào cơ chế đột quỵ trước đó, không nên chuyển sang thuốc kháng đông chỉ vì hậu nhiễm COVID-19.
– Với các bệnh nhân sau mắc COVID-19 nếu có mắc đồng thời các bệnh mạn tính khác vẫn cần duy trìsử dụng các thuốc điều trị dự phòng như trước đây.
– Tuy nhiên, một số bác sĩ còn thói quen sử dụng thuốc kháng đông hoặc aspirin cho bệnh nhân COVID-19. Việc này cần tham khảo các thuốc dự phòng đột quỵ sẵn có của bệnh nhân trước đây để tránh việc trùng lắp, có thể làm tăng nguy cơ c.hảy m.áu.
Một năm sau mắc COVID-19, nguy cơ mắc đột quỵ giảm rõ rệt nhưng vẫn cao hơn ở bệnh nhân có t.iền sử nhiễm COVID-19 trước đó.
4. Có nên tầm soát đột quỵ sau khi nhiễm COVID-19?
– Nếu bệnh nhân mắc COVID-19 nhẹ, không có các yếu tố nguy cơ đột quỵ kèm theo, nguy cơ đột quỵ sẽ rất thấp. Do vậy, không cần thiết phải tầm soát đột quỵ một cách thường quy.
– Nếu bệnh nhân có yếu tố nguy cơ khác kèm theo, việc tầm soát đột quỵ cũng nên tập trung vào mục tiêu cần hướng đến trong việc kiểm soát chặt các yếu tố nguy cơ này. Không nên lạm dụng các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh nếu như bệnh nhân không có triệu chứng đột quỵ.
– Hầu hết mọi người đã quá hoảng loạn vì đại dịch và những thông tin nhiễu trên truyền thông. Do vậy, nhiệm vụ của thầy thuốc lúc này là xoa dịu và giúp họ bình tâm trở lại.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng
Phó chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM Trưởng Khoa Bệnh lý mạch m.áu não Bệnh viện Nhân dân 115
Nỗi đau từ những căn bệnh vô hình “lặn trong gen”
Bệnh lặn đơn gen là cái tên không mấy quen thuộc với nhiều người. Nhưng nỗi đau mà chúng mang đến lại không hề xa lạ, đặc biệt với những cha mẹ có con không may mắc bệnh.
Những bệnh nhân không có ngày ra viện
Trường hợp của sinh viên H.T.N. (Bắc Kạn) có lẽ là một trong những trường hợp thương tâm nhất trong số rất nhiều bệnh nhân đang điều trị tại Trung tâm Tan m.áu bẩm sinh của Viện Huyết học – Truyền m.áu Trung Ương.
Mỗi năm Việt Nam có khoảng 8.000 trẻ sơ sinh chào đời bị bệnh tan m.áu bẩm sinh (Ảnh: PV).
Nhà chị N. có 4 anh chị em, từ nhỏ đều đã ốm yếu, chậm lớn, không rõ nguyên nhân. Cũng mang những triệu chứng tương tự nhưng không quá nghiêm trọng, từ năm lên 10, chị N. đã được bác sĩ khuyên lên Hà Nội thăm khám để tìm hiểu kỹ hơn nhưng không có điều kiện. Mãi đến năm 20 t.uổi mới quyết định lên thủ đô xét nghiệm, chị N. bất ngờ khi biết mình có gen bệnh Thalassemia (tan m.áu bẩm sinh).
Nghi ngờ nguyên nhân phát sinh các triệu chứng của anh chị mình không phải do viêm gan như từng nghĩ, mà có thể là do căn bệnh “lặn” bên trong gen di truyền của gia đình, cả nhà đưa nhau đi làm xét nghiệm. Và kết quả không khỏi bất ngờ, tất cả 4 thành viên gia đình chị N. đều mắc bệnh tan m.áu bẩm sinh.
Theo khuyến cáo của bác sĩ, cả nhà chị N. giờ đây phải tái khám định kỳ và có thể phải nhập viện truyền m.áu mỗi tháng. Riêng chị N. buộc phải ngừng học và kiếm những công việc đơn giản, nhẹ nhàng phù hợp với sức khỏe hơn.
Gánh nặng kinh tế, nỗi lo bệnh tật, sự đau đớn giày vò… là những gì mà bệnh nhân mắc bệnh tan m.áu bẩm sinh như chị N. phải gánh chịu gần như suốt cuộc đời. Thế nhưng mỗi ngày qua đi, vẫn có rất nhiều đ.ứa t.rẻ sinh ra với bệnh tật trong người. Chỉ vì phần lớn cha mẹ chúng chưa từng nghe tên hay có ai khuyên là nên sàng lọc sớm những bệnh di truyền lặn như rối loạn chuyển hóa đường galactose; Phenylketon niệu; thiếu hụt men G6PD; và đặc biệt là bệnh tan m.áu bẩm sinh thể alpha, beta…
Những con số giật mình về “căn bệnh vô hình ”
Với mong muốn làm rõ tỷ lệ bệnh lặn đơn gen (bệnh thể ẩn) trong quần thể người Việt Nam, Viện Di truyền Y học – Gene Solutions đã phối hợp với nhiều bệnh viện lớn khảo sát vấn đề này từ tháng 8/2018 cho đến tháng 8/2020. Kết quả nghiên cứu và bản thảo về Tần suất bệnh thể ẩn ở người Việt Nam dựa trên thống kê từ 985 trường hợp bệnh nhân đã được công bố trên tạp chí di truyền quốc tế uy tín Human Mutation (IF 4.8).
Bài báo của Viện Di truyền Y học – Gene Solutions đăng trên tạp chí di truyền quốc tế Human Mutation (IF 4.8).
Theo đó, 7 bệnh có tỷ lệ người lành mang gen bệnh cao nhất, đặc trưng cho quần thể người Việt Nam, với tỷ lệ đều trên 1/100 người bình thường. Cụ thể gồm: suy giảm thính lực bẩm sinh – gen GJB2; bệnh ứ sắt – hemochromatosis – gen HFE ; hội chứng Cohen – gen VPS13B , tan m.áu bẩm sinh thể beta – gen HBB ; rối loạn chuyển hóa thiếu hụt citrin – gen SLC25A13; Phenylketon niệu – gen PAH ; rối loạn phát triển giới tính ở nam thiếu men 5alpha-reductase-2 – gen SRD5A2.
Đặc biệt, riêng 3 bệnh: Tan m.áu bẩm sinh thể beta, rối loạn chuyển hóa thiếu hụt citrin, Phenylketon niệu có tỷ lệ người lành mang gen bệnh cao gấp 2-12 lần tỷ lệ của các nước Đông Nam Á và thế giới.
Tuy nhiên, hiểu biết của cộng đồng về những căn bệnh âm thầm và nguy hiểm này gần như vẫn còn là “vùng tối” tại Việt Nam. Bác sĩ CKI Nguyễn Vạn Thông – Trưởng khoa Di truyền Y học, Bệnh viện Hùng Vương (TP.HCM) chia sẻ: “Đã đến lúc chúng ta cần cho các cặp vợ chồng chuẩn bị mang thai và đặc biệt là thai phụ Việt biết về tầm quan trọng của việc xét nghiệm các bệnh lặn đơn gen này ngay trong 3 tháng đầu thai kỳ để thai phụ và gia đình cân nhắc thực hiện xét nghiệm tầm soát, nhằm có biện pháp can thiệp kịp thời. Việc phát hiện muộn có thể gây hậu quả đáng tiếc”.
Nhiều năm trước, việc tầm soát bệnh lặn đơn gen khá khó khăn vì thiếu công nghệ xét nghiệm, chi phí cao và chỉ có thể phát hiện qua sàng lọc sau sinh. Nhưng hiện nay, một số đơn vị nghiên cứu giải pháp gen đã làm chủ công nghệ giải trình tự gen hiện đại tại Việt Nam, điển hình là Viện Di truyền Y học – Gene Solutions. Thai phụ trong nước đã có thể sàng lọc các bệnh lặn đơn gen trước và trong thai kỳ thông qua mẫu m.áu của mẹ với xét nghiệm triSure Carrier do Viện nghiên cứu phát triển.
Với công nghệ hiện đại, xét nghiệm triSure Carrier có thể tầm soát cùng lúc 9 bệnh lặn đơn gen phổ biến (Ảnh: Gene Solutions).
Với triSure Carrier, chỉ cần xét nghiệm một lần đã có thể tầm soát 9 bệnh lặn đơn gen nguy hiểm gồm rối loạn chuyển hóa galactose; Phenylketon niệu; thiếu hụt men G6PD; tan m.áu bẩm sinh Thalassemia thể alpha và beta; rối loạn chuyển hóa đồng Wilson; vàng da ứ mật do thiếu hụt men citrin; rối loạn phát triển giới tính ở nam do thiếu men 5 alpha-reductase và bệnh Pompe. Đặc biệt, khi sàng lọc các dị tật di truyền như Down, Edwards, Patau, Turner với triSure NIPT, thai phụ sẽ được xét nghiệm miễn phí 9 bệnh lặn đơn gen phổ biến nói trên bằng triSure Carrier.
Theo TS. Giang Hoa, Phó Viện trưởng Viện Di truyền Y học – Gene Solutions, nếu như chỉ thăm khám, làm xét nghiệm bình thường không thể nào phát hiện “người lành mang gen bệnh”, chỉ có xét nghiệm gen mới là giải pháp hữu hiệu nhất giúp sàng lọc sớm những người lành mang gen bệnh. Xét nghiệm sàng lọc bệnh lặn đơn gen vô cùng cần thiết không chỉ cho riêng thai phụ, mà cho cả những cặp đôi sắp kết hôn hoặc làm thụ tinh IVF.