Thế giới bước sang năm thứ ba của cuộc chiến Covid-19 với nhiều thách thức. Khi “làn sóng Delta” vẫn chưa được kiểm soát, Omicron – “siêu biến thể” với khả năng lây lan mạnh – lại xuất hiện.
Cách đây 2 năm, dịch “viêm phổi lạ” được phát hiện tại Trung Quốc đã bắt đầu lan rộng, trở thành đại dịch toàn cầu và được biết đến với cái tên: Covid-19.
Thế giới bước sang năm thứ ba của cuộc chiến Covid-19 với nhiều thách thức. Khi “làn sóng Delta” vẫn chưa được kiểm soát thì Omicron – “siêu biến thể” với khả năng lây lan mạnh – lại xuất hiện.
Thế giới bước sang năm thứ ba của cuộc chiến Covid-19 với nhiều thách thức (Ảnh minh họa: Đỗ Linh).
Tuy nhiên, các chiến dịch bao phủ vaccine Covid-19 được thực hiện thần tốc ở quy mô toàn cầu đã giúp mang lại niềm hy vọng về sự kết thúc của đại dịch.
Trong cuộc họp báo ngày 31/12, Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus tin rằng, đại dịch Covid-19 sẽ kết thúc trong năm 2022 nếu thế giới giải quyết được vấn đề bất bình đẳng vaccine.
“Đại dịch Covid-19 sẽ được kết thúc như thế nào?”, chính là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm trong thời điểm này.
2 kịch bản để kết thúc đại dịch Covid-19
Trao đổi với Dân trí, TS.BS Phạm Quang Thái – Phó Trưởng Khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, cho hay, thông thường có 2 kịch bản để các đại dịch kết thúc.
TS.BS Phạm Quang Thái – Phó Trưởng Khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương (Ảnh: NVCC).
Kịch bản thứ nhất là dịch bệnh đó lây nhiễm cho toàn bộ dân số và sẽ có một số lượng người nhất định t.ử v.ong vì dịch bệnh.
“Xét theo trường hợp của Covid-19. Theo ghi nhận thực tế, có khoảng 80% người mắc bệnh không triệu chứng/triệu chứng nhẹ; 20% còn lại bị bệnh lý cần phải điều trị và chỉ có một nửa số đó có nguy cơ diễn tiến nặng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu để nhiễm và khỏi theo tự nhiên, không có vaccine hay các biện pháp điều trị thì 5-10% dân số, tương đương với khoảng 400-800 triệu người trên toàn cầu sẽ t.ử v.ong và khi đó đại dịch kết thúc”, TS Thái cho hay.
Tuy nhiên, theo chuyên gia này, kịch bản thứ nhất chỉ phù hợp với các dịch bệnh xảy ra vào thời xa xưa, khi con người chưa có vaccine hay thuốc điều trị.
Kịch bản thứ hai phù hợp hơn với bối cảnh hiện tại. Theo đó, qua quá trình lây lan, virus sẽ tự biến đổi và các biến thể sau giảm dần độc lực. Khi độc lực được giảm dần đến mức nào đó khiến tỷ lệ t.ử v.ong rất thấp, nó sẽ trở thành dịch bệnh lưu hành và chung sống với chúng ta.
TS Thái phân tích: “Thông thường các làn sóng dịch đầu tiên, độc lực virus còn cao sẽ dẫn đến tỷ lệ t.ử v.ong cao. Sau đó, virus sẽ giảm dần độc lực thì những làn sóng tiếp theo dù lây nhiễm nhiều nhưng tỷ lệ t.ử v.ong sẽ thấp dần”.
Theo chuyên gia này, hiện có 7 loại virus corona gây bệnh ở người đã được biết đến. Ngoài SARS-CoV (gây dịch SARS), MERS-CoV (gây dịch MERS) và gần đây nhất là SARS-CoV-2 (gây bệnh Covid-19), thì 4 loại virus corona đầu tiên có khả năng cũng đã gây ra các vụ dịch thời xa xưa.
“Bằng chứng khoa học cho thấy, khả năng cũng đã từng có các đại dịch của các chủng virus corona khác đã xảy ra hàng ngàn năm trước đây. Rồi sau khi giảm độc lực chúng sẽ sống cùng con người, hàng năm sẽ gây tình trạng cảm cúm, hắt hơi, sổ mũi”, TS Thái nói, “Trong cả 2 kịch bản, cuối cùng đại dịch cũng sẽ kết thúc. Ví dụ như đại dịch cúm 1918, đã kết thúc sau 4 năm sau khi g.iết c.hết 50 triệu người và nhiễm 500 triệu người (1/3 dân số toàn cầu lúc đó) cho đến năm 1919 và chỉ thực sự thành cúm mùa sau năm 1921. Lúc đó, mặc dù vẫn có các vụ dịch với số mắc nhiều nhưng số ca t.ử v.ong rất thấp. Nó sẽ không còn là đại dịch”.
Khi nào có thể khẳng định Covid-19 không còn là đại dịch?
Theo TS Thái, khi tỷ lệ t.ử v.ong do Covid-19 giảm xuống mức rất thấp, thế giới có thể tuyên bố kết thúc đại dịch Covid-19.
Chuyên gia này lấy dẫn chứng về bệnh cúm mùa. Theo đó, tỷ lệ t.ử v.ong do căn bệnh này hiện chỉ ở mức 0,04% – 0,1%.
Với Covid-19, nếu để dịch bệnh hoành hành, lan tràn thì tỷ lệ t.ử v.ong có thể lên tới 2% (Ảnh minh họa: Đỗ Linh).
“Bản thân cúm mùa hàng năm vẫn có một số lượng bệnh nhân t.ử v.ong. Tuy nhiên, với các bệnh nhân này, chúng ta thường chẩn đoán t.ử v.ong do viêm phổi hay những bệnh cơ hội khác, trong khi đó nguyên nhân sâu xa và ban đầu vẫn là cúm mùa”, TS Thái chia sẻ.
Với Covid-19, nếu để dịch bệnh hoành hành, lan tràn thì tỷ lệ t.ử v.ong có thể lên tới 2%. Tuy nhiên, nếu tiêm vaccine đầy đủ, tỷ lệ t.ử v.ong sẽ được giảm đi nhiều chỉ còn khoảng dưới 0,4%, tức là 1.000 người đã tiêm đủ mũi vaccine mắc Covid-19 thì chỉ có chưa tới 4 người t.ử v.ong, thay vì 20 hoặc hơn nếu không tiêm vaccine.
Omicron có phải là chìa khóa để kết thúc đại dịch?
Theo TS Thái, hiện tại còn quá sớm để nhận định Omicron là vaccine tự nhiên có thể giúp kết thúc đại dịch Covid-19.
Tại Nam Phi, Omicron lây nhiễm chủ yếu trên những trường hợp đã từng nhiễm biến thể khác hoặc người đã tiêm vaccine, dẫn đến việc tỷ lệ t.ử v.ong rất thấp, chỉ khoảng 0,1 – 0,4%. Con số này gần tương đương với cúm mùa. Về cơ bản, những quốc gia như vậy hàng ngày cũng sẽ ghi nhận ca t.ử v.ong vì Covid-19 nhưng sẽ rất ít.
Siêu biến thể Omicron đang đặt ra nhiều thách thức cho toàn cầu (Ảnh minh họa: AFP).
“Vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta có thực sự muốn điều đó xảy ra hay không?”, TS Thái nhấn mạnh.
Theo chuyên gia này, nếu muốn điều đó xảy ra thì toàn dân sẽ phải bị lây nhiễm Omicron và sẽ phải có rất nhiều bệnh nhân t.ử v.ong và kể cả không Covid-19, vẫn t.ử v.ong do quá tải hệ thống y tế, để có thể có được kết quả như ở Nam Phi.
“Đó là lý do vì sao chúng ta vẫn đang phải kiểm soát chặt sự xâm nhập của biến thể Omicron, song song với đó là đẩy mạnh bao phủ vaccine Covid-19″, TS Thái cho hay.
Trước đó, trao đổi với Dân trí, TS Kidong Park, Trưởng Đại diện Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam nhận định, còn quá sớm và mạo hiểm để cho rằng, Omicron có thể trở thành vaccine tự nhiên để chấm dứt đại dịch.
Theo TS Kidong Park, ngay cả khi triệu chứng có vẻ nhẹ, nhưng nó có thể gây nên số lượng bệnh nhân lớn do khả năng lây nhiễm gia tăng, gây quá tải hệ thống y tế và cướp đi sinh mạng của những người dễ bị tổn thương.
“Chúng ta cần thận trọng và tiếp tục các biện pháp 5K để ngăn ngừa lây nhiễm Covid-19, bao gồm cả biến thể Delta và Omicron”, TS Kidong Park nhấn mạnh.
Tái tạo bàng quang từ ruột non trị ung thư
Nam bệnh nhân 37 t.uổi đã mổ khối u bàng quang 5 năm trước, nay ung thư tái phát buộc phải cắt toàn bộ bàng quang ngăn di căn.
Ba tháng gần đây, anh thường xuyên đau tức bụng dưới, tiểu m.áu nhiều lần. Cơ sở y tế gần nhà chẩn đoán anh bị ung thư bàng quang tái phát, cần đến bệnh viện chuyên khoa để điều trị. Do dịch Covid-19 tại TP HCM bùng phát, việc điều trị bị gián đoạn, sức khỏe bệnh nhân ngày càng suy yếu.
Ngày 5/10, bác sĩ Nguyễn Vĩnh Bình, Trưởng khoa Ngoại tiết niệu, Bệnh viện Xuyên Á, cho biết tình trạng lúc nhập viện của bệnh nhân rất nguy kịch, biến chứng suy thận cấp, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, thiếu m.áu nặng do mất m.áu kéo dài.
Các bác sĩ điều trị những biến chứng, soi bàng quang, chụp cắt lát vi tính (MSCT) hệ niệu 160 lát cắt để đ.ánh giá giai đoạn của bệnh. Hướng điều trị tối ưu đưa ra cho bệnh nhân là phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc nhằm ngăn chặn nguy cơ ung thư di căn; đồng thời tạo một bàng quang nhân tạo làm nơi chứa nước tiểu để đảm bảo hoạt động cơ thể bình thường sau này.
Sau một tuần điều trị biến chứng nhiễm khuẩn, lọc m.áu hai lần và truyền bù m.áu, bệnh nhân đủ điều kiện để tiến hành phẫu thuật. Các bác sĩ đã phẫu thuật nội soi cắt bỏ bàng quang, tuyến t.iền liệt, túi tinh, hai ống dẫn tinh, nạo vét toàn bộ hạch để loại bỏ hoàn toàn khối u. Cuối cùng, các bác sĩ lấy một đoạn ruột non khoảng 60 cm của bệnh nhân tạo hình thành túi chứa nước tiểu. Bàng quang tái tạo này được nối với niệu đạo, bệnh nhân vẫn có thể đi tiểu theo đường tự nhiên.
Theo bác sĩ Minh, trong suốt 8 giờ phẫu thuật, ê kíp gặp không ít bất lợi như bàng quang quá to gây khó khăn cho ca mổ nội soi. Trong khi đó, mạc treo ruột (phần gắn ruột vào thành bụng) ngắn khiến việc tạo hình khó khăn; các mạch m.áu lớn vùng chậu teo nhỏ do di chứng bại liệt của bệnh nhân khi còn nhỏ, nếu bất cẩn có thể cắt đứt nguồn mạch m.áu nuôi hai chi dưới.
Hiện, sau hai tuần hậu phẫu, bệnh nhân không còn mệt mỏi, tiểu m.áu hay phải chịu đựng những cơn đau rát, buốt h.ành h.ạ khi đi tiểu. Bệnh nhân ăn uống ngon miệng hơn, cơ thể hồi phục và dần thích nghi với bàng quang mới.
Bệnh nhân (ngồi) chụp ảnh cùng các bác sĩ điều trị trước khi xuất viện. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á
Đây là ca điển hình được tái tạo bàng quang từ ruột non, sau khi phải cắt bàng quang để điều trị ung thư tại Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á. Trước đây, với các ca tương tự, khi chưa có kỹ thuật tạo hình bàng quang thay thế bằng ruột, bác sĩ phải mở hai niệu quản ra da. Như vậy, bệnh nhân phải mang bên người hai túi dẫn lưu niệu quản chứa chất thải, ảnh hưởng sinh hoạt và có nguy cơ n.hiễm t.rùng.
Ung thư bàng quang là bệnh phổ biến thứ 7 trong các bệnh ung thư của nam giới và thứ 10 ở cả hai giới. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) năm 2020, ung thư bàng quang đứng thứ 20 về số lượng bệnh nhân được phát hiện trong tất cả loại ung thư, bác sĩ Minh thông tin.
Triệu chứng thường gặp của ung thư bàng quang là đi tiểu ra m.áu. Người tiểu m.áu nên đi khám ngay, nhằm chẩn đoán sớm ung thư bàng quang và điều trị kịp thời.