Hậu COVID-19 là vấn đề đang được nhiều người quan tâm. Vậy cách nào để giảm nhẹ tình trạng này, đặc biệt là những người mắc bệnh nền, bệnh lý nội tiết?
1. Bốn yếu tố nguy cơ hậu COVID-19
Sau khi nhiễm COVID-19, có rất nhiều các triệu chứng như mệt, phát ban ở da, khó ngủ, lo lắng, hay dấu hiệu “sương mù não” – một dạng rối loạn nhận thức dẫn đến các biểu hiện mệt mỏi, căng thẳng thiếu minh mẫn, kém tập trung…
Đây được biết đến là hội chứng hậu COVID-19 và các nhà nghiên cứu đang ở trong giai đoạn đầu tìm hiểu về vấn đề này.
Trên thực tế, ngay cả những người nhiễm COVID-19 không triệu chứng ngay sau khi nhiễm cũng có thể có những vấn đề của hậu COVID-19. Các triệu chứng có thể kéo dài trong vài tuần hoặc vài tháng.
Một nghiên cứu theo dõi sau nhiễm COVID-19 khoảng 2-3 tháng cho thấy có 4 yếu tố làm tăng nguy cơ và mức độ biểu hiện các triệu chứng của hậu COVID-19:
Tải lượng virus cao, sự hiện diện của một số tự kháng thể tấn công nhầm vào các mô của cơ thể.Sự kích hoạt lại của virus Epstein-Barr (EBV). Virus EBV là một trong những loại virus phổ biến nhất ở người. Loại virus này là nguyên nhân gây bệnh bạch cầu đơn nhân và liên quan tới một số loại ung thư như ung thư biểu mô vòm họng, ung thư dạ dày, u lympho Hodgkin,…Mắc đái tháo đường type 2.Các yếu tố như t.uổi tác, giới tính, các bệnh lý nền đi kèm…
2. Làm thế nào để giảm thiểu các tác động của COVID-19?
Câu trả lời là: Có nhiều cách để vừa kiểm soát và giảm nhẹ các nguy cơ tác động của hậu COVID-19. Tuy nhiên, có thể tổng kết bằng công thức:
Tiêm đầy đủ vaccine Chủ động tự chăm sóc bản thân để nâng cao sức khỏe, nâng cao hệ miễn dịch (tăng khả năng chiến đấu của cơ thể với bệnh tật) = Chìa khóa để phòng chống lại những tác hại của hậu COVID-19.
Các hoạt động nhằm nâng cao sức khỏe bao gồm dinh dưỡng, vận động, hỗ trợ sức khỏe tinh thần và can thiệp y tế (nếu cần). Cụ thể:
– Ăn cân đối, đủ chất: tăng chất xơ và vitamin đến từ rau xanh, hoa quả; uống sữa; ăn các loại hạt, ăn cá, trứng…
– Tăng cường vận động, tham gia các hoạt động tích cực, tập luyện phù hợp với tình trạng sức khỏe và sở thích.
– Ngủ đủ giấc.
– Hạn chế môi trường t.huốc l.á, kiểm soát stress.
– Duy trì các thuốc đang điều trị bệnh lý nền (nếu có).
3. M ột số lưu ý ở bệnh nhân mắc bệnh nội tiết
Bệnh nhân mắc các bệnh liên quan đến nội tiết khá nhiều (mắc đái tháo đường, các bệnh tuyến giáp, suy tuyến thượng thận) cần phải lưu ý nhiều hơn về tình trạng hậu COVID-19.
Các vấn đề sức khỏe có thể xuất hiện và kéo dài 2-3 tháng sau nhiễm thậm chí có thể hơn 6 tháng sau. Vì vậy, đặc biệt với bệnh nhân có bệnh lý nền không nên chủ quan. Cần theo dõi sát để có những điều chỉnh kịp thời.
3.1 Đối với bệnh nhân đái tháo đường:
– Chú ý theo dõi ở nhiều thời điểm khác nhau đặc biệt chỉ số đường huyết và huyết áp (đặc biệt về đêm) để duy trì mục tiêu và điều chỉnh kịp thời khi có bất thường.
– Vẫn duy trì uống thuốc đầy đủ, vì không có bằng chứng cần phải dừng các thuốc ức chế DPP4 và ức chế men chuyển.
– Duy trì chế độ ăn uống, luyện tập và thuốc đều đặn để tránh tình trạng dao động đường huyết (tránh đường huyết tăng hoặc hạ).
Tăng cường thực phẩm giàu vitamin.
– Bệnh nhân đái tháo đường thường phối hợp với nhiều bệnh lý khác đặc biệt ở người có t.uổi. Vì vậy, hậu COVID-19 thường gặp và không nên chủ quan. Ngoài những thuốc điều trị đái tháo đường, người bệnh cần điều trị thêm các bệnh lý khác (nếu có) đặc biệt vấn đề về tâm lý.
– Nếu thấy các dấu hiệu bất thường về các chỉ số sinh tồn như nhịp tim, nhịp thở, đường huyết, huyết áp, tình trạng nước tiểu thậm chí các bất thường về mặt sức khỏe tinh thần: Cần liên lạc với nhân viên y tế gần nhất hoặc bác sĩ chuyên khoa để được trợ giúp.
3.2 Đối với bệnh lý nội tiết khác:
– Suy thượng thận: Tuyệt đối KHÔNG được ngừng thuốc, thậm chí trong những ngày ốm còn phải tăng liều theo hướng dẫn của bác sĩ.
– Đối với bệnh nhân mắc các bệnh lý tuyến giáp: Tiếp tục duy trì thuốc nền, nếu có các dấu hiệu bất thường như đau vùng tuyến giáp, đau đầu, hồi hộp đ.ánh trống ngực, mệt… cần tái khám sớm.
TS.BS. Nguyễn Thu Hiền
Trưởng khoa điều trị ban ngày, Bệnh viện Nội tiết Trung ương
Lạnh bàn chân, một trong những triệu chứng hậu COVID-19
Lạnh bàn chân là một trong những rối loạn cơ thể mà nhiều người gặp phải sau khi khỏi COVID-19. Ngoài ra, một số bệnh lý khác về mạch m.áu cũng có thể gây ra hiện tượng này.
Bàn chân lạnh là hiện tượng khá phổ biến. Tuy nhiên, nếu bị lạnh thường xuyên trong thời tiết ấm áp thì có thể là dấu hiệu cảnh báo một số bệnh tiềm ẩn.
Thời tiết miền Bắc đang ấm dần lên, nhưng chị Minh Ngọc (Hà Nội) vẫn luôn phải đi tất dày ở chân kể cả lúc ngủ. Chị cho biết, từ sau khi bị nhiễm COVID-19, chị luôn cảm thấy ớn lạnh, tay chân lạnh buốt, đi tất và mặc đồ ấm vẫn không đỡ hơn. Chị lo lắng bất an vì nếu tình trạng này cứ kéo dài sẽ không ổn, không chỉ về sức khỏe mà còn bất tiện khi muốn diện đồ thời trang mà chị yêu thích.
Bàn chân lạnh có thể là một trong những triệu chứng hậu COVID-19
Theo chia sẻ của bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng, Trung tâm Oxy cao áp Việt Nga – Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga (Hà Nội), ông đã gặp và tư vấn nhiều cho bệnh nhân gặp phải hiện tượng này. Đây là một trong những rối loạn cơ thể sau khi khỏi COVID-19.
Giải thích về hiện tượng này, các chuyên gia cho biết nguyên nhân là do tình trạng vi huyết khối gây tắc mạch ở các mao mạch nhỏ, khiến m.áu lưu thông kém. Ngoài ra, có thể người bệnh gặp tình trạng rối loạn thần kinh thực vật sau COVID-19 gây ra do căng thẳng, stress dẫn đến rối loạn co thắt mạch m.áu.
Tình trạng này không quá nguy hiểm, ít gây biến chứng cho sức khỏe, song có thể ảnh hưởng tâm lý, thói quen sinh hoạt và làm việc. Một số trường hợp nếu không giữ ấm tốt dễ bị nhiễm lạnh dẫn đến các bệnh về đường hô hấp.
Để cải thiện tình trạng này, bạn nên thường xuyên vận động nhẹ nhàng là cách giúp cơ thể tăng nhiệt, ăn các đồ ăn có tính ấm nóng, dùng trà gừng, quế… và luôn giữ ấm cơ thể. Bạn nên mang theo bình nước ấm bên người, vài viên kẹo ngọt… để khi thấy hơi mệt, cảm giác lạnh, có thể sử dụng để triệu chứng sớm qua.
Trong trường hợp sử dụng mọi biện pháp nhưng các triệu chứng không cải thiện, tốt nhất nên khám bác sĩ chuyên khoa. Bởi ngoài nguyên nhân do hậu COVID-19, chứng bàn chân lạnh còn là dấu hiệu cảnh báo bệnh sau:
Ảnh minh họa
Xơ vữa động mạch
Những người có nguy cơ cao dễ bị xơ vữa động mạch là những người hút t.huốc l.á, mắc cao huyết áp, nồng độ cholesterol cao và lớn t.uổi. Khi bị xơ vữa động mạch, các mảng bám cholesterol tích tụ bên trong thành động mạch làm tắc nghẽn lưu thông m.áu. Nếu các mảng xơ vữa xuất hiện ở động mạch dẫn đến bàn chân thì có thể khiến chân bị thường xuyên bị lạnh.
Mắc bệnh tiểu đường, thận
Người bị tiểu đường thường lưu thông m.áu kém. Đường huyết cao trong thời gian dài sẽ làm tổn thương niêm mạc các mạch m.áu, khiến mạch m.áu bị thu hẹp và cứng. Kết quả là làm giảm lưu thông m.áu đến chân, gây lạnh bàn chân. Ngoài tiểu đường, những vấn đề sức khỏe như bệnh gan, thận hay t.iền sử gia đình cũng là nguyên nhân khiến bàn chân luôn bị lạnh hơn so với người khác.
Thiếu m.áu
Thiếu m.áu là tình trạng mà cơ thể tạo ra ít hồng cầu hơn bình thường. Nguyên nhân thường gặp là do thiếu sắt vì sắt là khoáng chất cần thiết để tạo ra hồng cầu. Hồng cầu có chức năng đưa ô xy đi khắp cơ thể. Khi lượng hồng cầu trong m.áu giảm thì bàn chân và nhiều cơ quan khác sẽ không nhận đủ ô xy. Do đó, thiếu m.áu có thể dẫn đến hàng loạt vấn đề sức khỏe, trong đó có cả bàn chân lạnh.