Theo thống kê, tỷ lệ phụ nữ được chẩn đoán mắc ung thư phổi những năm gần đây tăng nhanh hơn so với nam giới, ngay cả khi họ không hút thuốc.
Các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Stanford và Đại học California (Mỹ) đã công bố về các yếu tố tiềm ẩn gây ra ung thư phổi ở nữ giới. Họ đã tìm thấy một số điểm khác nhau giữa phụ nữ và đàn ông, bao gồm sự phát triển ung thư phổi, quá trình sàng lọc, kết quả chẩn đoán lâm sàng và tác dụng phụ của việc điều trị.
Các mầm mống ung thư phổi ngoài hút t.huốc l.á
Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường (EPA), một số hợp chất phóng xạ trong đất, đá, nước và radon là nguyên nhân chủ yếu gây ra ung thư phổi ở những bệnh nhân không có t.iền sử hút thuốc.
Một phân tích được tổng hợp từ 37 nghiên cứu cho thấy rằng, 24% nữ giới không hút t.huốc l.á có khả năng mắc ung thư phổi nếu bị tiếp xúc với khói thuốc từ những người xung quanh. Tỷ lệ hút t.huốc l.á thụ động tại nước ta rất cao, ước tính 67,6% người bị phơi nhiễm khói thuốc tại nhà và 49% tại nơi làm việc. Ung thư phổi bắt nguồn từ tình trạng này thường gặp ở phụ nữ cao gấp đôi so với nam giới.
Ngoài ra, khói từ hoạt động nấu ăn cũng góp phần làm tăng tỷ lệ ung thư phổi ở nữ giới. Delphine Farmer, một nhà hóa học tại Đại học bang Colorado (Mỹ) cho biết rằng, việc nấu ăn sẽ giải phóng hàng trăm hợp chất hóa học độc hại khác nhau vào không khí. Ví dụ như protein trong thịt bị p.hân h.ủy sẽ tạo ra amoniac, chiên đồ ăn có thể tạo ra isocyanates, dầu ăn cháy dẫn đến sự hình thành hydrocacbon thơm đa vòng (chất gây ung thư hàng đầu),…Các phân tử này trong không khí có thể tiếp tục phản ứng khi chúng bay xung quanh nhà bếp và va vào nhau.
Một số nguyên nhân khác có thể kể đến đó là sự mất cân bằng nội tiết tố estrogen trong cơ thể, t.iền sử mắc bệnh phổi mãn tính hay yếu tố di truyền. Theo đó, phụ nữ t.iền mãn kinh có thể diễn biến bệnh ung thư phổi nặng hơn phụ nữ đã mãn kinh. Các bệnh nhân “sống chung” với bệnh lý về phổi như tắc nghẽn mãn tính, n.hiễm t.rùng,… hoặc có người thân mắc ung thư phổi cũng có khả năng cao bị căn bệnh này.
Loại ung thư phổi thường gặp ở phụ nữ
Nếu nam giới thường mắc ung thư phổi tế bào vảy (một dạng của ung thư tế bào nhỏ) thì ở nữ giới, loại ung thư phổi phổ biến nhất là ung thư tuyến. Ngoài ra, ung thư biểu mô vách phế nang (BAC), một dạng hiếm của ung thư phổi, cũng xuất hiện ở phụ nữ nhiều hơn nam giới. Tỷ lệ mắc BAC hiện đang gia tăng trên toàn cầu, đặc biệt là ở những phụ nữ trẻ không hút thuốc.
Các triệu chứng ung thư phổi thường gặp ở phụ nữ
Ở nam giới, ung thư phổi tế bào vảy thường phát triển gần đường hô hấp, do đó dấu hiệu thường gặp là ho dai dẳng và ra m.áu. Tuy nhiên đối với phái nữ, các tế bào ung thư thường phát triển ở các vùng ngoài phổi. Những khối u này có thể tăng trưởng khá nhanh và lây lan trước khi chúng gây nên những bất thường trên cơ thể. Các triệu chứng thường gặp là mệt mỏi, khó thở, tức ngực, thậm chí, đau lưng và ngực nếu ung thư phổi đã di căn đến xương.
Khi nào cần sàng lọc ung thư vú?
Tôi năm nay 42 t.uổi, có mẹ đã mất vì ung thư vú cách đây 3 năm. Vậy khi nào tôi cần đi khám để sàng lọc nguy cơ ung thư vú?
GS.TS Trần Văn Thuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế, nguyên Giám đốc Bệnh viện K khuyến cáo, chị em trên 40 t.uổi nên sàng lọc ung thư vú hàng năm. Bởi ở người Việt, t.uổi mắc ung thư vú trẻ hơn so với các nước. Vì thế, ngoài việc tự khám vú mỗi tháng, chị em cần được tầm soát ung thư vú từ t.uổi 40.
Đặc biệt, bạn có mẹ bị ung thư vú, như vậy bạn là người có yếu tố nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn người bình thường, vì thế, bạn nên thực hiện khám sàng lọc định kỳ sớm.
Các bác sĩ cho biết, chụp X-quang cho phép sàng lọc ung thư vú ở quần thể khỏe mạnh, ngay cả phụ nữ chưa có dấu hiệu gì của bệnh đều được chỉ định. Những người có yếu tố nguy cơ cao như có mẹ, chị gái, em gái mắc ung thư vú, người từng bị ung thư một bên vú…càng nên được chụp X-quang tuyến vú định kỳ.
Có nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú. Ngoài các yếu tố di truyền, nguy cơ ung thư vú có liên quan đến t.uổi bắt đầu k.inh n.guyệt muộn, t.uổi sinh con lần đầu trên 30 t.uổi. Xu hướng mắc ung thư vú ở phụ nữ Việt Nam bắt đầu tăng từ độ t.uổi 30-34 t.uổi và tăng nhanh, đỉnh cao ở 55-59 t.uổi với tỷ lệ là 135/100.000 dân.
GS Thuấn cho biết, với ung thư vú nếu phát hiện ở giai đoạn sớm tỉ lệ chữa khỏi đến 95%. Tuy nhiên tại Việt Nam, vẫn có đến 50% bệnh nhân ung thư vú đến viện ở giai đoạn muộn.
Trong khi đó, việc tầm soát, sàng lọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng với phát hiện sớm ung thư vú. Trong giai đoạn 2008-2010, qua sàng lọc 70.980 phụ nữ tại 7 tỉnh/thành phố, tỷ lệ phát hiện ung thư vú qua sàng lọc là 59,2/100.000 phụ nữ là khá cao, cho thấy hiệu quả khi triển khai các chương trình này tại cộng đồng.
Tuy nhiên tại cộng đồng, chỉ có 24,2% phụ nữ có thực hành tự khám vú hàng tháng trong số những người tham gia chiến dịch sàng lọc, phát hiện sớm ung thư vú. Tuy nhiên, tín hiệu đáng mừng đó là tỷ lệ phát hiện bất thường ở nhóm phụ nữ thực hành tự khám vú thấp hơn ở nhóm không thực hành cho thấy hiệu quả và ý nghĩa của việc hướng dẫn phụ nữ tự khám vú đối với việc phát hiện sớm tổn thương ung thư vú.