Để chống lại Omicron, mọi người nên tiêm mũi vắc xin thứ 3. Cũng như 2 mũi đầu, khi tiêm mũi 3, người tiêm có thể bị các tác dụng phụ.
Riêng đối với vắc xin Moderna, sau khi tiêm mũi 3, có 2 tác dụng phụ có thể khiến bạn khó ngủ.
Đó là ớn lạnh và buồn nôn.
Để chống lại Omicron, mọi người nên tiêm mũi vắc xin thứ 3. Ảnh SHUTTERSTOCK
Cơ quan Quản lý Thuốc và Sản phẩm Chăm sóc sức khỏe Anh cho biết, vắc xin Moderna có thể dẫn đến ớn lạnh, theo nhật báo Express (Anh).
Cảm giác ớn lạnh trong khi cố gắng chìm vào giấc ngủ có thể khá khó chịu.
Vắc xin Moderna cũng có thể dẫn đến cảm giác buồn nôn, cùng với cảm giác ớn lạnh, điều này có thể khiến giấc ngủ trở nên khó khăn hơn.
Trong khi vắc xin có thể dẫn đến cảm giác cực kỳ mệt mỏi, có nghĩa là rất buồn ngủ.
Các tác dụng phụ khác thường bao gồm sưng đau hạch dưới nách của tay tiêm thuốc, đau đầu, nôn mửa, đau cơ, đau khớp, cứng khớp, đau hoặc sưng chỗ tiêm, mệt mỏi, sốt.
2 tác dụng phụ của mũi thứ 3 có thể khiến bạn khó ngủ. Ảnh SHUTTERSTOCK
Các tác dụng phụ “phổ biến” khác, xảy ra ở 1/10 người, bao gồm tiêu chảy, phát ban toàn thân hoặc phát ban mẩn đỏ hoặc nổi mề đay tại chỗ tiêm – có thể xuất hiện trung bình từ 4 đến 11 ngày sau khi tiêm.
Một số người có thể bị ngứa tại chỗ tiêm, mặc dù hiếm gặp.
Trong một số trường hợp hiếm hoi, cứ 1.000 người thì có thể có một người bị liệt dây thần kinh mặt khiến một bên mặt tạm thời xệ xuống.
Tiêm mũi 3 vắc xin Covid-19: những điều cần biết
Các tác dụng phụ “hiếm gặp” khác có thể bao gồm sưng mặt, chóng mặt, giảm cảm nhận khi sờ vào mặt hoặc giảm cảm giác.
Các tác dụng phụ sẽ khỏi trong vài ngày, nếu đau hoặc sốt có thể dùng paracetamol, theo nhật báo Express (Anh).
Phát hiện kháng thể có khả năng vô hiệu hóa Omicron và nhiều biến chủng khác
Các nhà khoa học đã xác định được kháng thể mới có thể nhắm vào những bộ phận được bảo tồn trên gai protein của virus corona khi nó tiếp tục biến đổi và phát triển.
Đây là một tiến bộ lớn được kỳ vọng có thể tạo ra những phương pháp điều trị mới nhằm vô hiệu hóa Omicron và các biến thể khác của virus SARS-CoV-2. Ông David Veesler, giáo sư tại Đại học Y khoa Washington của Mỹ, cho biết, việc xác định các kháng thể “vô hiệu hóa trên diện rộng” như vậy trên protein gai của virus – bộ phận mà nó sử dụng để xâm nhập vào tế bào người, có thể giúp phát triển những loại vaccine và liệu pháp điều trị bằng kháng thể tốt hơn, không chỉ hiệu quả khi chống lại Omicron mà còn chống lại các biến thể khác xuất hiện trong tương lai.
Biến thể Omicron nhìn dưới kính hiển vi. Ảnh: business-standard.com
“Phát hiện này cho chúng ta thấy, bằng cách tập trung vào những kháng thể nhắm đến những vị trí được giữ nguyên trên protein gai khi virus biến đổi, chúng ta có sẽ có cách để vượt qua sự tiến hóa liên tục của virus”, ông Veesler cho biết.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng Omicron có 37 đột biến trên gai protein – điều này phần nào lý giải nguyên nhân nó có thể lây lan nhanh chóng như vậy, ảnh hưởng đến cả những người đã tiêm vaccine và những người đã hồi phục sau khi mắc bệnh.
Trong báo cáo xuất bản trên tạp chí Nature, các nhà khoa học đã đ.ánh giá ảnh hưởng của những đột biến nói trên bằng cách phát triển một virus bị vô hiệu hóa, không sao chép được gọi là virus giả để tạo ra các protein gai trên bề mặt của nó. Sau đó, họ tạo ra virus giả có các đột biến giống đột biến của Omicron và các biến chủng khác của SARS-CoV-2 từng được phát hiện trong suốt đại dịch.
Tiếp đến, các nhà nghiên cứu đ.ánh giá khả năng liên kết giữa các phiên bản protein gai khác nhau với thụ thể ACE2 – một loại protein trên bề mặt tế bào người mà virus sử dụng như cánh cửa để xâm nhập và lây nhiễm cho các tế bào. Họ phát hiện ra rằng, protein gai đột biến của Omicron có thể bám dính tốt hơn gấp 2,4 lần so với protein gai của các biến thể khác được phân lập ngay từ đầu đại dịch.
Ông David Veesler lưu ý: “Đó không phải là sự gia tăng quá lớn, nhưng từ thời điểm bùng phát dịch SARS năm 2002-2003, các đột biến trong protein gai đã dần tiến hóa để giúp virus corona gia tăng khả năng lây nhiễm”.
Bước ngoặt lớn trong việc điều chế vaccine
Khi xem xét kháng thể dùng để chống lại những biến chủng ban đầu có tác dụng mạnh như thế nào đối với Omicron, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, kháng thể của những người từng bị nhiễm các biến chủng trước đó và những người đã tiêm một trong 6 loại vaccine phổ biến nhất hiện nay, đều giảm khả năng ngăn chặn sự lây nhiễm.
Trong khi đó, kháng thể từ những người từng bị lây nhiễm, đã hồi phục và được tiêm 2 liều vaccine cũng giảm hiệu quả, nhưng mức độ giảm rất nhẹ, chỉ kém hơn khoảng 5 lần. Điều đó chứng tỏ rằng việc tiêm phòng cho những người từng mắc bệnh rất hữu ích.
Kháng thể từ những người đã được tiêm liều vaccine mRNA tăng cường do Moderna và Pfizer sản xuất, trong trường hợp này là những bệnh nhân mắc bệnh thận phải lọc m.áu, có tác dụng vô hiệu hóa virus thấp kém hơn 4 lần.
“Điều đó cho thấy, việc tiêm liều tăng cường thực sự có tác dụng trước Omicron”, ông Veesler đ.ánh giá.
Các nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng hầu như tất cả phương pháp điều trị bằng kháng thể, hiện đang được cho phép sử dụng để điều trị cho những bệnh nhân nhiễm virus đều “không có hoặc giảm rõ rệt” hiệu quả trước Omicron trong phòng thí nghiệm. Tuy vậy, kháng thể đơn dòng Sotrovimab là trường hợp ngoại lệ với hiệu quả chống lại Omicron chỉ giảm khoảng 2 hoặc 3 lần.
Nhưng khi kiểm tra lượng kháng thể lớn hơn được tạo ra để chống lại các biến thể trước đó của virus SARS-CoV-2, các nhà nghiên cứu đã xác định được 4 nhóm kháng thể vẫn có khả năng vô hiệu hóa Omicron. Mỗi nhóm trong số này đều nhắm mục tiêu vào một trong 4 bộ phận đặc biệt trên protein gai không chỉ của virus SARS-coV-2 mà còn của nhóm virus corona liên quan có tên gọi sarbecovirus. Các bộ phận này có thể được bảo tồn trong quá trình virus tiến hóa bởi chúng đóng một vai trò thiết yếu và vai trò này sẽ mất đi nếu chúng bị đột biến.
Ông Veesler cho rằng việc phát hiện các kháng thể có khả năng chống lại virus thông qua nhận diện những bộ phận được bảo tồn trên protein gai của chúng sẽ giúp tạo ra những loại vaccine hay phương pháp điều trị mới có hiệu quả rộng rãi, chống được nhiều biến thể của SARS-CoV-2 có khả năng xuất hiện trong tương lai./.