Ngày 11/3 là tròn 2 năm sau khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố COVID-19 là đại dịch toàn cầu.
Đến nay, trên 450 triệu người dân trên thế giới đã mắc bệnh, trên 6 triệu người đã t.ử v.ong và COVID-19 trở thành một trong những đại dịch nghiêm trọng nhất trong lịch sử.
Bảng nhắc nhở người dân đeo khẩu trang phòng dịch COVID-19 tại bến xe buýt ở Toronto, Canada, ngày 2/3/2022. Ảnh: THX/TTXVN
Mới đây, trang abc.net (Australia) đã đăng tải bài đ.ánh giá của Giáo sư Adrian Esterman, chuyên ngành thống kê sinh học và dịch bệnh học, tại đại Học Nam Australia, chỉ ra 3 điều thế giới đã từng hiểu sai về COVID-19 và 3 điều cần chú ý trong tương lai. Trong thời gian đầu dịch bệnh mới xuất hiện có nhiều điều thế giới còn chưa hiểu rõ về virus SARS-CoV-2 dẫn tới một số quan niệm sai lầm.
Điều đầu tiên, đó là hoài nghi về khả năng tìm ra vaccine phòng bệnh. Trước khi COVID-19 xuất hiện, giới khoa học đã nỗ lực phát triển các loại vaccine ngừa virus gây Hội chứng viêm đường hô hấp cấp (SARS) và Hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS) đều do 2 chủng virus corona giống như SARS-CoV-2 gây ra. Một số loại vaccine đã được đưa vào thử nghiệm lâm sàng nhưng chưa loại nào được cấp phép. Trước vaccine phòng COVID-19, vaccine phòng bệnh quai bị là loại được phát triển nhanh nhất trong lịch sử và cũng cần 4 năm hoàn thiện.
Tuy nhiên, Pfizer/BioNTech thông báo phát triển thành công vaccine phòng COVID-19 trong vòng 12 tháng và đến nay đã có hơn 10 loại vaccine được cấp phép sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới và hơn 100 loại đang ở các giai đoạn thử nghiệm lâm sàng khác nhau. Hiện Pfizer và Moderna đều đã thông báo tiến hành thử nghiệm lâm sàng vaccine phòng biến thể Omicron và nhiều nhóm nghiên cứu khác cũng đang phát triển các vaccine có tiềm năng phòng mọi loại biến thể của virus.
Sai lầm thứ hai là suy nghĩ không cần đeo khẩu trang. Trong thời gian đầu, khi chưa có vaccine, các biện pháp vệ sinh cá nhân, giãn cách xã hội và đeo khẩu trang giúp giảm lây nhiễm. Tuy nhiên, trong khi đa số ý kiến ủng hộ biện pháp rửa tay sát khuẩn và giãn cách xã hội thì biện pháp đeo khẩu trang lại gặp phải những luồng ý kiến trái chiều.
Trước tháng 4/2020, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ từng ra khuyến nghị không cần đeo khẩu trang tại nơi công cộng, chủ yếu do 2 nguyên nhân là lo ngại thiếu nguồn cung khẩu trang phẫu thuật và khẩu trang N95 cho các địa điểm có nguy cơ cao hơn, ngoài ra khi đó các ca không triệu chứng và ca ủ bệnh chưa phát triệu chứng được tin là không có khả năng lây bệnh. Tuy nhiên, đến ngày 3/4/2020, CDC đã điều chỉnh hướng dẫn và khuyến nghị người dân đeo khẩu trang vải nhiều lớp và đến nay là đeo khẩu trang vừa khít và ôm vào mặt. Với biến thể Omicron, nhiều chuyên gia cho rằng đeo khẩu trang vải không đảm bảo mà cần đeo khẩu trang phẫu thuật hoặc chuyên dụng hơn.
Sai lầm thứ 3 là trong những ngày đầu đại dịch mới xuất hiện, nhiều ý kiến cho rằng các bề mặt tiếp xúc là nơi có nguy cơ lây truyền virus nhiều nhất. Tuy nhiên, hiện nay, các thông tin đều chỉ ra virus lây lan đầu tiên là qua các giọt b.ắn và dịch tiết. Các nhà khoa học ngày nay tin rằng nguy cơ lây nhiễm bệnh do tiếp xúc với các bề mặt nhiễm khuẩn là rất ít.
Tác giả bài viết cũng nêu 3 điều thế giới cần chú ý trong tương lai.
Thứ nhất là nguy cơ xuất hiện các biến thể mới và gây bệnh nghiêm trọng hơn. Một trong những cơ sở chính để lo ngại là tỷ lệ tiêm phòng còn thấp ở nhiều quốc gia đang phát triển. Virus càng lây lan và sao chép ở nhiều người chưa tiêm phòng thì càng có nguy cơ xuất hiện các đột biến và biến thể mới.
Thứ 2 là tình trạng miễn dịch giảm dần theo thời gian. Nhiều người già và người dễ bị tổng thương đã tiêm mũi 3 từ tháng 11 hoặc tháng 12/2021 hiện đang cho thấy khả năng miễn dịch giảm nhanh. Do đó, nhóm này cần được tiêm mũi 4 càng sớm càng tốt.
Thứ 3 là các triệu chứng kéo dài sau khi mắc COVID-19. Khi số lượng người mắc COVID-19 ngày càng tăng thì số người chịu các vấn đề sức khỏe kéo dài cũng sẽ ngày càng nhiều. Do đó, tác giả cho rằng nhà chức trách cần duy trì một số biện pháp phòng dịch cơ bản như quy định đeo khẩu trang để hạn chế số người bị mắc bệnh.
Dù cho rằng hiện chưa phải lúc để coi đại dịch COVID-19 là bệnh đặc hữu và cần nhanh chóng đưa cuộc sống trở lại bình thường, tác giả bài viết vẫn tin rằng với các loại vaccine tốt hơn và các phương pháp điều trị được cải thiện, thế giới đang bắt đầu giai đoạn cuối của thời kỳ đại dịch.
Chuyên gia cảnh báo xuất hiện biến chủng nguy hiểm hơn Omicron
Giới chuyên gia cảnh báo, tốc độ lây lan như hiện tại của Omicron cho thấy đây có thể không phải phiên bản biến chủng SARS-CoV-2 đáng lo ngại cuối cùng.
Virus càng lây lan càng có cơ hội biến đổi để tạo ra các biến chủng mới (Ảnh minh họa: Shutterstock).
Khi virus càng lây lan, nó càng có cơ hội đột biến để tạo ra các biến chủng khác. Omicron có khả năng lây lan cao hơn nhiều so với các biến chủng khác của SARS-CoV-2, thậm chí ở cả những khu vực có tỷ lệ miễn dịch cao nhờ vaccine và do nhiễm bệnh trước đó.
Do đó, virus có thể tiến hóa hơn nữa. Giới chuyên gia chưa thể đoán định được biến chủng tiếp theo sẽ như thế nào và sẽ ảnh hưởng như thế nào đến diễn biến đại dịch. Họ cũng không chắc chắn liệu các biến chủng sau sẽ gây bệnh nhẹ hơn và liệu vaccine hiện tại có còn hiệu quả cao hay không.
“Omicron lây lan nhanh hơn, nó càng có cơ hội đột biến và dẫn đến xuất hiện thêm nhiều biến chủng khác”, Leonardo Martinez, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Boston, bình luận.
Kể từ khi xuất hiện vào giữa tháng 11/2021, Omicron đã nhanh chóng lan ra hầu khắp thế giới.
Các nghiên cứu cho thấy, Omicron có khả năng lây lan cao ít nhất hơn 2 lần so với Delta – biến chủng trội từng khiến thế giới vật lộn đối phó, và cao hơn ít nhất 4 lần so với chủng ban đầu. Ngoài ra, biến chủng Omicron được cho là cũng dễ gây tái nhiễm hơn so với biến chủng Delta, đó là lý do xuất hiện các ca bệnh “đột phá” ở những người từng mắc Covid-19 hoặc đã tiêm chủng vaccine.
Biến chủng Omicron được cho là nguyên nhân khiến số ca Covid-19 mới toàn cầu tăng vọt những tuần gần đây. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), thế giới có thêm kỷ lục 15 triệu ca Covid-19 trong tuần từ ngày 3-9/1, tăng 55% so với tuần trước đó.
Các dữ liệu ban đầu chỉ ra, Omicron gây ra triệu chứng ít nghiêm trọng hơn so với Delta. Điều này làm dấy lên hy vọng virus này khởi đầu để thế giới tiến tới chấm dứt đại dịch, Covid-19 sẽ trở thành một bệnh thông thường như cảm cúm. Tuy nhiên, không phải lúc nào virus cũng ít nghiêm trọng hơn qua thời gian. Tiến sĩ Stuart Campbell Ray, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Đại học Johns Hopkins, giải thích một biến chủng có thể sẽ đạt mục tiêu chính là tái tạo nếu những người nhiễm bệnh ban đầu chỉ có các triệu chứng nhẹ và lây lan virus cho rất nhiều người khác, nhưng sau đó bệnh trở nên nặng hơn.
Khả năng né miễn dịch tốt hơn giúp virus sinh tồn trong một quãng thời gian dài. Khi virus SARS-CoV-2 gây bệnh Covid-19 xuất hiện lần đầu, không ai có miễn dịch. Tuy nhiên, cùng với các ca nhiễm, vaccine Covid-19 đã mang đến mức độ miễn dịch nhất định cho phần lớn thế giới. Điều này buộc virus thích ứng để sinh tồn. Chúng có thể lây nhiễm sang động vật, đột biến và trở lại tấn công con người, kể cả những người đã được tiêm chủng. Ngoài ra, với việc Omicron và Delta lây lan cùng lúc, con người có thể bị “lây nhiễm kép” hay nhiễm “biến chủng lai”, chuyên gia Ray nói.