Bệnh gout là một loại viêm khớp đột ngột gây ra hiện tượng sưng đỏ và đau ở các khớp.
Cùng với sự phát triển của cuộc sống hiện đại, bệnh gout cũng đang ngày càng trở nên phổ biến, để lại những cơn đau khớp nặng nề, ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Gout không phải là bệnh khó điều trị nhưng có rất nhiều người không tuân thủ chỉ định điều trị của bác sĩ hoặc tự ý dùng thuốc gây hậu quả nghiêm trọng, khiến tình trạng bệnh ngày càng nặng hơn.
Dưới đây là những hiểu lầm trong điều trị bệnh gout cần tránh.
1. Bệnh gout không nguy hiểm
Nhiều người bệnh cho rằng bệnh gout không nguy hiểm đến tính mạng, chỉ là bệnh xương khớp thông thường nên việc thực hiện chỉ định của bác sĩ cũng không tuân thủ. Đây là một quan niệm không đúng, trên thực tế, bệnh sẽ có những đợt bùng phát khác nhau, một số người chỉ bị vài năm một lần, trong khi những người khác lại gặp vài tháng một lần.
Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có nguy cơ xảy ra thường xuyên hơn và mật độ khớp bị ảnh hưởng có thể rộng hơn, nồng độ acid uric cao và không được điều trị trong thời gian dài có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nguy hiểm.
Theo một nghiên cứu cho thấy có khoảng 20% bệnh nhân gout bị sỏi thận, nguyên nhân do sự tích tụ của các tinh thể urat và calci tạo thành sỏi. Điều này dẫn đến suy giảm chức năng thận, gây tắc nghẽn và n.hiễm t.rùng đường tiết niệu.
Mức độ nặng của bệnh cũng liên quan đến tỷ lệ cao của bệnh tim thiếu m.áu. Đứng trước nguy cơ b.ị h.oại t.ử khớp và tàn phế khi các hạt tophi vỡ gây ra loét, tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập gây n.hiễm t.rùng dẫn đến viêm khớp, để lâu dẫn đến hỏng khớp. Ngoài ra, các biến chứng của bệnh có thể gây ra như tổn thương xương, khớp, suy thận, suy tim, …làm suy giảm t.uổi thọ.
2. Chỉ có nam giới t.uổi trung niên là mắc bệnh gout
Nhiều người cho rằng nam giới t.uổi trung niên mới mắc căn bệnh này. Nhưng dù tỷ lệ bệnh gout thường gặp nhất ở đàn ông trung niên 40-50 t.uổi, tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại, bệnh gout có thể gặp ở mọi lứa t.uổi, mọi đối tượng. Thực tế cho thấy, tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh ngày càng phổ biến đặc biệt ở nhóm phụ nữ đã mãn kinh. Bên cạnh đó, khi đời sống được nâng cao hơn, nguồn thực phẩm đa dạng và chế độ ăn không lành mạnh đã khiến căn bệnh này ngày càng phổ biến và trẻ hóa.
Thống kê cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới là 0,7-1,4% và tỷ lệ nữ giới 0,5 – 0,6%. Đặc biệt, phụ nữ sau mãn kinh do nội tiết tố thay đổi cần chú ý thói quen sinh hoạt để phòng ngừa bệnh gout.
Cuộc sống hiện đại, bệnh gout có thể gặp ở mọi lứa t.uổi, mọi đối tượng.
3. Ăn nhiều đạm mới dẫn đến mắc bệnh gout
Trước đây quan niệm cho rằng bệnh gout “bệnh nhà giàu” ăn uống toàn cao lương mỹ vị mới dẫn đến gout. Mặc dù gout là bệnh do rối loạn chuyển hoá liên quan đến Acid uric và liên quan nhiều đến chế độ ăn. Tuy nhiên, các thực phẩm chứa nhiều chất đạm chỉ là một trong các yếu tố nguy cơ, không phải là nguyên nhân chính gây bệnh gout mà bệnh còn liên quan đến các yếu tố di truyền và cơ địa, rối loạn quá trình tổng hợp purin,… làm cho purin nội sinh tăng và axit uric tăng.
4. Kháng sinh giúp điều trị bệnh gout
Khi nói đến bệnh gout, viêm khớp nhiều người cho rằng kháng sinh là thuốc có khả năng điều trị. Tuy nhiên, trên thực tế thuốc kháng sinh không có tác dụng điều trị mà đơn thuốc thông thường điều trị bệnh gồm: thuốc giảm đau, thuốc chống viêm, thuốc ức chế sản sinh acid uric và thuốc tăng đào thải acid,…và ở ở các mức độ bệnh khác nhau bác sĩ sẽ kê đơn thuốc phù hợp, bệnh nhân cần uống thuốc đều đặn, đúng giờ, đúng liều. Khi gặp vấn đề về sử dụng thuốc thì cần báo ngay bác sĩ để có biện pháp phù hợp, không tự ý thay đổi đơn thuốc.
5. Hết sưng đau các khớp là khỏi bệnh gout
Trong khi mắc bệnh gout, nhiều người bệnh khi đau đi khám và được các bác sĩ kê đơn thuốc và dừng thuốc khi hết đau vì cho rằng bệnh đã khỏi. Ngoài ra, còn lo sợ dùng thuốc có nhiều tác dụng phụ. Đây là một quan niệm sai lầm vì gout là căn bệnh mạn tính, kéo dài trong nhiều năm. Nếu bệnh ổn định, không tái phát cơn đau cấp, nồng độ Acid uric trở về bình thường thì người bệnh vẫn nên tiếp tục điều trị thêm 3 – 6 tháng để dự phòng tái phát cơn gout cấp.
Người bệnh gout hạn chế ăn các thực phẩm chứa nhiều chất đạm, purin nhưng không có nghĩa là kiêng kỵ hoàn toàn thực phẩm giầu đạm.
6. Ăn kiêng triệt để sẽ không tái phát bệnh gout
Khi mắc bệnh gout người bệnh thường được nhắc là hạn chế ăn các thực phẩm chứa nhiều chất đạm, purin… tuy nhiên do lo sợ bệnh tái phát nhiều người bệnh kiêng tuyệt đối, nhiều người chuyển sang chế độ ăn kiêng, ăn chay để bệnh không tái phát. Điều này cũng chưa thật khoa học, ở giai đoạn cấp thì cần kiêng tuyệt đối với các thực phẩm giàu đạm có gốc purin như: Hải sản, phủ tạng động vật như: lưỡi, lòng, tim, gan,.. và chỉ giảm bớt những thực phẩm giàu đạm khác trong khẩu phần ăn như : thịt lợn, thịt gà, thịt vịt…; cá và các loại thủy sản như: lươn, cua, ốc, ếch…
Còn một số loại thực phẩm có hàm lượng các chất này rất thấp, vì vậy vẫn có thể dùng thoải mái, cụ thể như: Các loại cá sông (cá chép, cá diêu hồng), cá đồng (cá rô), thịt trắng (ức gà),… có hàm lượng ít purin, vẫn có thể sử dụng để cung cấp chất đạm cần thiết cho cơ thể.
Khi mắc phải bệnh gout thì chế độ ăn uống là điều vô cùng quan trọng để có thể chung sống hòa bình và chiến đấu với căn bệnh này nhưng không nghĩa là cần kiêng khem triệt để dẫn tới cơ thế thiếu cân bằng dinh dưỡng.
7. Nhầm lẫn bệnh gout và bệnh giả gout
Bệnh gout và bệnh giả gout nhiều người nhầm lẫn vì là bệnh lý do ứ đọng tinh thể muối tại khớp và mô liên kết. Đây đều là hai bệnh có những biểu hiện lâm sàng giống nhau, dễ bị chẩn đoán nhầm với các hội chứng viêm hoặc thoái hóa khớp. Bệnh gout và giả gout có một số biểu hiện tương tự nhau tuy nhiên nguyên nhân và cách điều trị cũng hoàn toàn khác nhau.
Bệnh gout hình thành do sự lắng đọng tinh thể Urat tại các khớp, có liên quan tới chế độ ăn chứa nhiều purin. Cơn đau cấp thường khởi phát từ ngón chân cái, đau dữ dội trong 12 – 24 giờ và có hạt tophi. Trong khi bệnh giả gout do sự lắng đọng Calci tại các khớp, gây sưng đau tại gối và đau âm ỉ trong nhiều ngày. Căn bệnh này không liên quan tới chế độ ăn và không xuất hiện các hạt tophi và các chế độ ăn giầu đạm. Vì vậy, khi có các biểu hiện đau ở khớp cần đến cơ sở để được chẩn đoán không tự ý điều trị tránh nguy hại tới sức khỏe.
8.Cần làm gì?
Gout là bệnh lý do sự rối loạn chuyển hóa nhân purin, làm tăng a xít uric trong m.áu, dẫn đến lắng đọng urat trong các mô của cơ thể gây ra nhiều bệnh khác nhau, trong đó có bệnh lý về xương khớp.
Đáng lo ngại, nhiều người bệnh vì tâm lý chủ quan, dễ bỏ qua các dấu hiệu của bệnh, khiến bệnh không được phát hiện sớm, nhiều người bệnh đến khám khi bệnh đã trở nặng, gây khó khăn cho việc điều trị.
Bên cạnh đó, không ít người sau một thời gian điều trị, triệu chứng được cải thiện thì tự ý ngưng thuốc, lạm dụng thuốc giảm đau trong điều trị, gây nhờn thuốc, kháng thuốc.
Một số trường hợp lại hiểu nhầm và trong quá trình điều trị chỉ dùng thuốc khi có các triệu chứng sưng đau khớp, khi không thấy có các triệu chứng thì tự ý bỏ thuốc, không tuân theo liều lượng dùng cũng như các chỉ định của bác sĩ.
Những sai này đã dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như: Các cơn đau gout cấp thường xuyên xảy ra, thời gian tái phát giữa các cơn cấp ngắn lại. Bệnh nặng và khó điều trị hơn do dùng thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe không rõ nguồn gốc để chữa bệnh, để bệnh đau nặng mới điều trị. Nhiều người bệnh tổn thương chức năng thận, thậm chí là suy thận.
Vì vậy, bệnh nhân cần tuân thủ chỉ định của bác sĩ, phải được điều trị lâu dài và theo dõi trong suốt quá trình điều trị. Xét nghiệm định kỳ: công thức m.áu, đường, lipid, acid uric m.áu, chức năng gan thận siêu âm hệ niệu mỗi tháng trong 3 tháng đầu, sau đó mỗi 3 tháng.
Ghép tạng của cha cho b.é t.rai 9 tháng t.uổi mắc bệnh gan giai đoạn cuối
Bệnh nhi 9 tháng t.uổi nhập viện trong tình trạng khá nặng. Do thiếu m.áu và rối loạn đông m.áu nặng, trẻ thường xuyên phải sử dụng các chế phẩm m.áu và các thuốc điều trị hỗ trợ.
Ghép gan t.rẻ e.m là một trong những kỹ thuật khó bậc nhất của ghép tạng, với những đòi hỏi khắt khe về trình độ chuyên môn lẫn kỹ thuật.
TS.BS Nguyễn Phạm Anh Hoa – Trưởng Khoa Gan Mật – Bệnh viện Nhi Trung ương, cho biết, bệnh nhi vừa được ghép gan thành công là b.é t.rai 9 tháng t.uổi, ở Lâm Đồng, cân nặng 8.2 kg. Bệnh nhi được chỉ định ghép gan do có bệnh gan giai đoạn cuối do tình trạng xơ gan mật tiến triển của trẻ teo mật bẩm sinh
Thời điểm nhập viện, tình trạng của bệnh nhân đã khá nặng. Do thiếu m.áu và rối loạn đông m.áu nặng, trẻ thường xuyên phải sử dụng các chế phẩm m.áu và các thuốc điều trị hỗ trợ. Để cứu sống bệnh nhi, ghép gan là phương pháp duy nhất. Đây là ca ghép gan thành công thứ 25 tại Bệnh viện Nhi Trung ương và là ca ghép gan được thực hiện hoàn toàn bởi các y bác sĩ Bệnh viện Nhi Trung ương.
Các bác sĩ thực hiện ca ghép gan
Các bác sĩ cho biết, teo mật bẩm sinh là một bệnh lý hiếm gặp của gan và đường mật. Tỷ lệ mắc bệnh vào khoảng 1/10.000 trẻ sơ sinh sống. Đây là bệnh khiến toàn bộ hệ thống đường mật trong và ngoài gan đều bị tổn thương gây hậu quả xơ gan mật với các hậu quả nặng nề. Tuy được phẫu thuật nối mật-ruột (phẫu thuật Kasai), một số trẻ teo mật bẩm sinh vẫn có tình trạng xơ gan mật tiến triển và cần có chỉ định ghép gan điều trị.
PGS.TS Phạm Duy Hiền – Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương, người trực tiếp thực hiện và chỉ đạo kỹ thuật ca ghép gan của bệnh nhi, chia sẻ: “Ca ghép gan này được thực hiện trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 phức tạp với rất nhiều khó khăn. Vượt qua các khó khăn trong đại dịch để cứu bệnh nhi mắc bệnh hiểm nghèo, không đơn thuần là sự làm chủ kĩ thuật ghép tạng và hồi sức của các bác sĩ trong ê kíp, mà còn có sự sẻ chia của các nhân viên y tế khác của bệnh viện. Trong 2 ngày, sau lời kêu gọi, hơn 506 đơn vị m.áu đã được các y bác sĩ bệnh viện cùng các Đoàn viên thanh niên Câu lạc bộ phản ứng nhanh hiến m.áu tình nguyện Công an TP Hà Nội và một số đơn vị, cá nhân cộng đồng chia sẻ cho ca ghép và những bệnh nhi khác đang cần phẫu thuật”.
Ca ghép gan được chuẩn bị với sự phối hợp của nhiều chuyên gia ở các khoa Gan mật, Ngoại tổng hợp, Gây mê, Hồi sức ngoại, Trung tâm xét nghiệm cận lâm sàng, Ngân hàng m.áu, chẩn đoán hình ảnh… Ngày 14/3, ca đại phẫu được tiến hành, sau 9 giờ căng thẳng, PGS.TS Phạm Duy Hiền và ê kíp phẫu thuật viên Bệnh viện Nhi Trung ương đã ghép gan cho bé thành công. Bệnh nhi được hồi sinh nhờ sự quyết tâm của y bác sĩ cùng sự yêu thương của gia đình, đặc biệt là cha em, người đã hiến một phần gan để cứu sống con mình.
Sau phẫu thuật, hiện bệnh nhi được chăm sóc sau ghép tại khoa Điều trị tích cực Ngoại khoa, Bệnh viện Nhi Trung ương. Chia sẻ về quá trình chăm sóc cho bệnh nhi, TS.BS Đặng Ánh Dương- Trưởng khoa Điều trị tích cực Ngoại khoa, cho biết, bệnh nhi được chăm sóc hậu phẫu với chế độ hồi sức đặc biệt trong phòng vô khuẩn. Các bác sĩ đã tiến hành cho bệnh nhân thở máy 24 tiếng, hỗ trợ oxy tối đa, duy trì huyết áp, truyền chế phẩm về m.áu để điều chỉnh tình trạng đông m.áu, dùng các thuốc ức chế thải ghép… Sức khoẻ của trẻ sau ghép diễn biến tốt, chức năng khối ghép dần ổn định.