Việc nhiễm virus SARS-CoV-2 sẽ kích hoạt loạt cơ chế bảo vệ trong cơ thể người, được gọi chung là phản ứng miễn dịch thích ứng.
Phản ứng miễn dịch thích ứng có thể được chia nhỏ thành đáp ứng miễn dịch dịch thể (dựa trên kháng thể) và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Hình ảnh quét qua kính hiển vi điện tử cho thấy một tế bào (màu xanh) bị virus SARS-COV-2 (màu tím) xâm nhập. Ảnh: AFP/TTXVN
Trong nghiên cứu gần đây được công bố trên chuyên trang nghiên cứu y khoa medRxiv, các nhà nghiên cứu đ.ánh giá mối tương quan giữa các phản ứng miễn dịch thể và phản ứng miễn dịch qua trung gian qua tế bào đối với virus SARS-CoV-2 ở những người có triệu chứng và không có triệu chứng tại Anh.
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học đã thu thập dữ liệu từ nhóm TwinsUK và nhóm nghiên cứu triệu chứng COVID (CSS). TwinsUK có trên 14.000 cá nhân đã đăng ký tham gia, trong đó bao gồm trên 7.000 cặp song sinh.
Tổng cộng có 431 cá nhân từ nhóm TwinsUK đã tham gia vào nghiên cứu thăm khám tại nhà trong giai đoạn từ tháng 5/2020 đến tháng 6/2020. Trong số 431 người tham gia nghiên cứu thăm nhà này, 384 người cũng đã tham gia đầy đủ vào CSS. Dữ liệu CSS đã được sử dụng để thiết lập thang điểm triệu chứng, với thang điểm nằm trong khoảng từ 0 đến 1,0. Điểm trên 0,5 thể hiện “dương tính với triệu chứng” mắc COVID-19.
Tất cả những người tham gia được chia thành 4 nhóm dựa trên điểm số triệu chứng và phản ứng kháng thể IgG chống protein gai từ lần thăm khám tại nhà đầu tiên. Các nhóm bao gồm những cá nhân “dương tính về triệu chứng” với COVID-19 và có phản ứng dương tính với kháng thể (Nhóm 1), những cá nhân “dương tính về triệu chứng” với COVID-19 nhưng âm tính với kháng thể (Nhóm 2), những cá nhân “âm tính về triệu chứng” đối với COVID-19 và phản ứng dương tính với kháng thể, biểu hiện của mắc bệnh không triệu chứng (Nhóm 3) và những cá nhân “âm tính về triệu chứng” đối với COVID-19 và âm tính với kháng thể, biểu hiện của nhóm khỏe mạnh ( Nhóm 4).
Vào giai đoạn cuối nghiên cứu, có 9 người được đưa vào Nhóm 1, 12 người vào Nhóm 2, 6 người trong Nhóm 3 và 5 người vào Nhóm 4. Tất cả những người tham gia nghiên cứu đã cung cấp huyết thanh của họ để phân tích lượng protein gai và kháng thể nucleocapsid, cũng như phản ứng tế bào lympho T. Trong lần thăm khám thứ hai, những người tham gia tiếp tục cung cấp mẫu huyết thanh, được sử dụng để phân tách tế bào đơn nhân m.áu ngoại vi (PBMC) và tiến hành xét nghiệm kháng thể.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không ai trong số 17 người âm tính với kháng thể (bao gồm cả những người trong Nhóm 2 và 4) hay có phản ứng của tế bào lympho T, khi huyết thanh của họ được thử nghiệm chống lại các nhóm kháng nguyên của virus SARS-CoV-2 và protein nucleocapsid, cũng như tiểu phần S1 và S2 của protein gai. Trong khi đó, có 14 trong số 15 người dương tính với kháng thể, có phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào T chống lại các kháng nguyên virus này.
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng nồng độ kháng thể IgG chống protein gai có tương quan chặt chẽ với phản ứng của tế bào T hỗ trợ (CD4 ) so với mức độ liên quan của chúng với lượng tế bào T điều hòa. Mặc dù phản ứng này không có gì đáng ngạc nhiên, vì tế bào T hỗ trợ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra các phản ứng kháng thể của tế bào B, mối tương quan chặt chẽ giữa các tế bào T điều hòa và tế bào T hỗ trợ cũng được ghi nhận. Đáng chú ý, tất cả những người âm tính với kháng thể cũng không có biểu hiện phản ứng của tế bào T khi nhiễm virus SARS-CoV-2, bất kể họ xác nhận đã gặp các triệu chứng giống COVID-19 hay không.
Qua nghiên cứu, mối liên hệ chặt chẽ giữa nồng độ kháng thể IgG chống protein gai và phản ứng của tế bào T chứng tỏ rằng xét nghiệm tế bào T không có khả năng bổ sung bất kỳ thông tin nào liên quan đến khả năng miễn dịch của một người đối với virus SARS-CoV-2, khi được sử dụng cùng với biện pháp đo nồng độ kháng thể trung hòa. Tuy nhiên, vì khả năng phản ứng của tế bào T và mức độ kháng thể có thể khác nhau vào các thời điểm sau đó, thông tin này có thể hữu ích cho các nhà nghiên cứu để đ.ánh giá cách thức phản ứng của tế bào T và lượng kháng thể suy yếu sau vài tháng mắc bệnh hoặc tiêm phòng.
Trẻ tiêm vaccine có mắc Covid-19 nữa không?
Giống như người lớn, trẻ đã tiêm vaccine phòng Covid-19 vẫn có thể mắc bệnh. Song việc tiêm giúp giảm nguy cơ tiến triển nặng, nguy cơ t.ử v.ong, có thể giúp ngăn chặn các biến thể khác xuất hiện.
PGS.TS Dương Thị Hồng, Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương cho biết trong lịch sử tiêm chủng, không một vaccine nào đạt hiệu quả bảo vệ 100%. Điều này cũng đúng với vaccine phòng Covid-19. Đến nay, Việt Nam đã tiêm được hơn 81 triệu liều. Hiệu quả mà vaccine Covid-19 mang lại là giảm tình trạng tiến triển bệnh nặng và nguy cơ t.ử v.ong đối với những người không được tiêm vaccine so với những người được tiêm vaccine.
“Một người đã tiêm đủ 2 mũi vaccine vẫn có nguy cơ nhiễm virus SARS-CoV-2 tuy nhiên chúng tôi có hai khái nhiệm là nhiễm Covid-19 và mắc bệnh trầm trọng. Tiêm rồi vẫn có nguy cơ nhiễm nhưng tiến triển nặng giảm đi rất nhiều, nguy cơ t.ử v.ong giảm đi rõ rệt. Với tất cả vaccine phòng Covid-19 cho đến hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), các nhà sản xuất và các quốc gia đều đưa ra nhận định này đó một cách thuyết phục”, TS Hồng phân tích.
Nhấn để phóng to ảnh
TPHCM là địa phương đầu tiên trên cả nước tiến hành tiêm vaccine phòng Covid-19 cho trẻ 12-17 t.uổi (Ảnh: Hải Long)
Theo chuyên gia, với t.rẻ e.m, điều này cũng không ngoại lệ. Có thể trẻ tiêm nhưng vẫn có nguy cơ lây nhiễm Covid-19. Khi chúng ta đã đạt được miễn dịch cộng đồng ở mức trên 70% dân số được tiêm vaccine (Việt Nam đặt mục tiêu 90-95%) thì cộng đồng được bảo vệ. Vì thế, việc trẻ nào đó mắc bệnh thì cộng đồng vẫn được bảo vệ.
“Tới đây khi triển khai tiêm vaccine đầy đủ các mũi, cộng với việc sẽ có các mũi tiêm nhắc nếu cần thiết theo khuyến cáo của WHO và các quốc gia thì chúng ta mong muốn không chỉ tiếp tục duy trì cho trẻ được đi học mà việc giãn cách xã hội được giảm thiểu đến mức thấp nhất như Bộ Y tế hướng dẫn”, TS Hồng nói.
“Hiện nay, nếu dịch xảy ra ở những tỉnh, thành phố có độ bao phủ vaccine cao thì việc khoanh vùng sẽ rất nhỏ, từng hộ gia đình, cụm làng xóm, không giãn cách rộng như thời gian trước đây. Lý do vì đã có vaccine, chúng ta đảm bảo được miễn dịch cộng đồng”, TS Hồng cho biết thêm.
Theo CDC Hoa Kỳ, tiêm vaccine Covid-19 có thể giúp bảo vệ trẻ không mắc bệnh. Thông tin ban đầu cho thấy vaccine có thể giúp ngăn mọi người lây lan bệnh cho người khác. Chúng cũng có thể giúp con bạn không bị ốm nặng ngay cả khi chúng mắc bệnh.
Nhấn để phóng to ảnh
Tiêm vaccine phòng Covid-19 cho trẻ tại TPHCM (Ảnh: Quang Minh).
Theo Trung tâm y tế John Hopkins (Hoa Kỳ), vaccine có thể giúp ngăn ngừa t.rẻ e.m mắc Covid-19. Đôi khi trẻ mắc Covid-19 nhẹ hơn ở người lớn, nhưng một số trẻ mắc bệnh có thể bị viêm phổi nặng, ốm nặng và cần nhập viện. Điều này đặc biệt quan trọng cần ghi nhớ đối với biến thể Delta, biến thể này dễ lây lan hơn các biến thể coronavirus khác.
Bên cạnh đó, các loại vaccine hiện tại vẫn có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh nặng do biến thể Delta của virus gây ra. T.rẻ e.m cũng có thể có các biến chứng như hội chứng viêm đa hệ thống và cần phải chăm sóc đặc biệt hoặc các triệu chứng kéo dài ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần của trẻ. Virus có thể gây t.ử v.ong ở t.rẻ e.m, mặc dù trường hợp này hiếm hơn so với người lớn.
Vaccine giúp ngăn ngừa hoặc giảm sự lây lan của Covid-19. Giống như người lớn, t.rẻ e.m cũng có thể truyền virus cho người khác nếu chúng bị nhiễm, ngay cả khi chúng không có triệu chứng. Tiêm vaccine Covid-19 có thể bảo vệ trẻ và những người khác, giảm nguy cơ trẻ truyền virus cho người khác, bao gồm cả các thành viên trong gia đình và bạn bè, những người có thể dễ bị hậu quả nặng nề hơn của bệnh Covid-19.
Tiêm vaccine Covid-19 có thể giúp ngăn chặn các biến thể khác xuất hiện. Các trường hợp mắc bệnh Covid-19 đang gia tăng ở t.rẻ e.m và biến thể Delta dường như đang đóng một vai trò nào đó. Giảm sự lây truyền của virus bằng cách tiêm vaccine cũng làm giảm khả năng virus đột biến thành các biến thể mới, thậm chí có thể nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, virus có thể lây truyền dễ dàng giữa t.rẻ e.m và người lớn chưa được tiêm chủng, khiến các biến thể mới xuất hiện.
Trong tháng 11, Việt Nam sẽ triển khai tiêm mũi một vaccine phòng Covid-19 cho trẻ song không triển khai đồng loạt mà theo tiến độ tiêm cho người lớn, tiến độ cung ứng vaccine.
Tỉnh nào đã đạt tỷ lệ bao phủ vaccine cho người từ 18 t.uổi trở lên (80% người trên 18 t.uổi được tiêm ít nhất một mũi, 50% người từ 50 t.uổi trở lên được tiêm 2 mũi) thì mới tiến hành tiêm vaccine cho trẻ. Theo đó, sẽ ưu tiên cho địa phương đang có dịch, đang bị giãn cách xã hội, có mật độ dân cư tập trung, nguy cơ lây nhiễm cao.
Tỉnh nào chưa đạt tỷ lệ bao phủ vaccine cho người lớn thì vẫn tiếp tục ưu tiên cho nhóm này.