5 câu hỏi về COVID-19 mà các nhà khoa học vẫn chưa trả lời được

Gần hai năm sau khi tình trạng khẩn cấp vì dịch bệnh được ban bố tại Mỹ, các chuyên gia vẫn đang đau đầu trước nhiều câu hỏi về COVID kéo dài, hiệu quả của vaccine.

5 cau hoi ve covid 19 ma cac nha khoa hoc van chua tra loi duoc e2d 6329545
Phân tích mẫu xét nghiệm COVID-19 tại phòng thí nghiệm ở Houston, Mỹ. Ảnh: Getty Images

Sau hai năm, số người c.hết vì COVID-19 tại Mỹ sắp chạm cột mốc buồn – 1 triệu người. Cùng lúc, hàng chục triệu người Mỹ đã nhiễm COVID-19, phải nhập viện. Thế nhưng giới khoa học vẫn đang cố gắng tìm hiểu nhiều khía cạnh liên quan đến đại dịch. Dưới đây là 5 câu hỏi nổi bật.

1. Cần bao nhiêu mũi vaccine tăng cường?

Do hiệu lực bảo vệ của vaccine suy giảm theo thời gian, trong khi các biến chủng liên tục biến đổi, giới chuyên gia y tế cho rằng việc tiêm mũi tăng cường, mũi nhắc lại sẽ thành thông lệ. Trung tâm Kiểm soát và Ngăn ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) mới đây đã cập nhật hướng dẫn y khoa, cho rằng người có hệ miễn dịch yếu có thể tiêm mũi vaccine thứ tư. Cùng lúc, Israael, Đức và nhiều nước khác đang nghiên cứu hiệu quả của mũi thứ tư trước khi triển khai tiêm chủng đối với toàn dân.

Chủ tịch tập đoàn Moderna, ông Stephen Hoge từng khẳng định mỗi người cần tiêm mũi nhắc để ngừa COVID-19 theo mùa, giống với bệnh cúm thông thường, ít nhất là để bảo vệ nhóm có nguy cơ cao, giảm thiểu diễn tiến nặng nếu mắc bệnh.

2. Miễn dịch vaccine kéo dài bao lâu?

Thời điểm mũi vaccine đầu tiên được đưa vào tiêm chủng ở Mỹ là tháng 12/2020. Hai mẫu vaccine được cho là hiệu quả nhất Moderna và Pfizer/BioNTech đều sử dụng cách tiếp cận riêng: Dùng RNA thông tin (mRNA) dạy các tế bào cách tạo ra một loại protein kích hoạt phản ứng miễn dịch bên trong cơ thể trước virus.

Công nghệ vaccine dựa trên mRNA đã được nghiên cứu trong nhiều thập kỉ, nhưng đây là lần đầu tiên vaccine dạng này được đưa ra thị trường và chương trình tiêm chủng. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục thu thập thông tin về hiệu quả vaccine cũng như câu hỏi sau bao lâu vaccine giảm hiệu lực bảo vệ.

Trong báo cáo gần đây, CDC cho biết khả năng bảo vệ của vaccine mRNA trong ngăn chặn tình trạng bệnh nặng phải nhập viện suy giảm đáng kể 4 tháng sau khi tiêm, kể cả là mũi tăng cường. Cụ thể, hiệu lực bảo vệ này đạt 96% trong hai tháng sau mũi tiêm thứ ba, nhưng giảm xuống còn 76% sau thời gian 4 tháng.

3. Liệu có xuất hiện các biến chủng nguy hiểm như Delta hay Omicron hay không?

Virus liên tục đột biến. Đôi khi những đột biến này xuất hiện nhanh và biến mất cũng nhanh. Nhưng trong một số trường hợp, chúng tồn tại lâu và gây ra bùng phát mức độ lây nhiễm. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong hai năm qua, virus SARS-CoV-2 đã biến đổi và tạo ra 5 biến thể đáng quan tâm, dựa trên tiêu chí đ.ánh giá về mức độ lây lan nghiêm trọng, làm giảm hiệu quả các biện pháp điều trị, nguy cơ chuyển bệnh nặng.

5 cau hoi ve covid 19 ma cac nha khoa hoc van chua tra loi duoc 08a 6329545
Virus SARS-CoV-2 liên tục xuất hiện đột biến. Ảnh: Reuter

Tháng 9/2021, WHO hạ biến thể Alpha, Beta, Gamma xuống mức “biến thể cần giám sát”, trong khi vẫn giữ nguyên mức đ.ánh giá với Delta và Omicron.

Đến tháng 2 này, biến thể Omicron suy yếu tại Mỹ. Nhưng lại xuất hiện biến thể phụ của Omicron là BA.2, với khả năng lây nhiễm còn mạnh hơn 30% so với biến thể gốc Omicron. Giới chuyên gia cảnh báo dịch bện càng kéo dài và còn một số lượng lớn người chưa được tiêm, virus sẽ có cơ hội lây lan và đột biến. Việc dựng bản đồ, xác định biến chủng mới nằm trong khả năng, nhưng cần nhiều thời gian để xem xét, đ.ánh giá mức độ nghiêm trọng của biến thể.

4. Tại sao COVID-19 khiến nhiều người mắc bệnh nặng, trong đó có cả hội chứng COVID-19 kéo dài?

Virus SARS-CoV-2 gây ra nhiều triệu chứng, từ đau đầu, mệt, sốt, buồn nôn, mất vị giác, mất khứu giác… Các nhà khoa học vẫn đang tìm kiếm các mảnh ghép để xác định đối tượng nào dễ mắc các biểu hiện bệnh này, nhưng họ vẫn chưa có câu trả lời cho việc tại sao có người chuyển bệnh nặng, có người chỉ ở thể nhẹ.

T.uổi tác dĩ nhiên là biến số lớn nhất có liên quan đến xu hướng bệnh nặng, ông Gigi Gronvall, học giả cao cấp tại Trung tâm An sinh Y tế thuộc Trung tâm Johns Hopkins chia sẻ. Thế nhưng vẫn có nhiều trường hợp người 20-30 t.uổi, t.rẻ e.m t.hiệt m.ạng vì nhiễm COVID-19, trong khi mọi chỉ dấu cho thấy họ thuộc nhóm bệnh nhẹ.

Giới khoa học cũng đang cố tìm hiểu chứng COVID kéo dài (long COVID) – một loạt những triệu chứng xuất hiện ở người đã khỏi COVID-19 sau nhiều tuần, nhiều tháng. Hiện tại, nguyên nhân gây COVID kéo dài vẫn chưa rõ và danh sách các triệu chứng về bệnh này liên tục thay đổi.

5. COVID-19 có nguồn gốc từ đâu?

Các chuyên gia hiện vẫn chưa có câu trả lời cho việc COVID-19 xuất hiện ra sao. Giả thuyết phổ biến nhất cho đến thời điểm này là virus lây lan từ động vật sang người. Tuy nhiên, cũng tồn tại giả thuyết SARS-CoV-2 thoát ra từ phòng thí nghiệm.

Cảnh báo nguy cơ các bệnh tim mạch sau khi mắc COVID-19

Một nghiên cứu dựa trên số liệu y tế của trên 153.000 người ở Mỹ, vừa được công bố trên tạp chí Nature Medicine, đã phát hiện rằng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch ngày càng tăng trong năm đầu tiên sau khi mắc COVID-19, ngay cả khi người bệnh chỉ có triệu chứng nhẹ.

canh bao nguy co cac benh tim mach sau khi mac covid 19 334 6326138
Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân COVID-19 tại bệnh viện ở Houston, Texas, Mỹ. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN

Những người tham gia nghiên cứu này chủ yếu là đàn ông và da trắng, nhưng kết quả tương tự cũng được ghi nhận khi các nhà nghiên cứu phân tích số liệu của phụ nữ và những người da màu trong các phân tích riêng rẽ.

Chủ tịch Hiệp hội Tim Mỹ, ông Donald Lloyd-Jones cho biết: “Chúng tôi dự báo một làn sóng lớn về các sự cố tim mạch trong những năm tới, có thể xuất phát trực tiếp hoặc gián tiếp từ COVID-19”.

Tháng 2/2020, Viện Sức khỏe Quốc gia (NIH) đã khởi động một sáng kiến tìm hiểu nguyên nhân và cách điều trị các hội chứng COVID kéo dài, tức là sự tập hợp của các triệu chứng như sương mù não và mệt mỏi đến các vấn đề về tim mà một số người phải trải qua sau khi mắc COVID-19. Bên cạnh đó, Trường Tim mạch Mỹ đã thừa nhận các tác động nghiêm trọng và kéo dài của virus SARS-CoV-2 bằng việc soạn thảo một hướng dẫn mới, dự kiến công bố vào tháng 3, để theo dõi sau mắc bệnh.

Nhưng nhiều chuyên gia và các nhóm bảo vệ bệnh nhân cho rằng cần nhiều hơn nữa và đang kêu gọi Tổng thống Joe Biden và các lãnh đạo khác có sự thay đổi toàn diện trong hệ thống chăm sóc sức khỏe nhằm tăng hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu và điều trị, hỗ trợ cho những người không thể tiếp tục làm việc, cũng như xử lý các hậu quả về xã hội và tâm lý của người bệnh trong nhiều thập kỷ tới.

Phó Giáo sư Ziyad Al-Aly thuộc tại Đại học Washington, đồng tác giả nghiên cứu trên, nói: “Chúng ta sẽ phải đối phó với hậu quả về tim mạch và các bộ phận khác trong cơ thể”. Ông kêu gọi các chính phủ trên thế giới nên chú ý đến điều này, đồng thời nhấn mạnh: “Chúng ta chưa được chuẩn bị đầy đủ”.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *