Được chẩn đoán mắc ung thư vú giai đoạn IIIa, song người phụ nữ 45 t.uổi (Hải Dương) không điều trị.
6 tháng sau, chị đi khám lại thì bệnh đã chuyển sang giai đoạn cuối.
Theo PGS. TS Phạm Cẩm Phương, Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), ung thư vú và ung thư cổ tử cung là hai loại ung thư phổ biến gây t.ử v.ong hàng đầu ở nữ giới. Tại Việt Nam, ung thư vú chiếm 25,8% bệnh ung thư ở nữ giới với hơn 21.555 ca mắc mới và 9.345 ca t.ử v.ong.
Ung thư vú là một trong số các loại ung thư có khả năng sàng lọc phát hiện từ khi bệnh ở giai đoạn rất sớm và có tỷ lệ điều trị khỏi bệnh rất cao nếu được phát hiện và điều trị ở giai đoạn này. Ngược lại, nếu chẩn đoán và điều trị ở giai đoạn muộn thì việc điều trị sẽ khó khăn, chi phí điều trị cao và hiệu quả sẽ thấp hơn nhiều.
Việc sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú được thực hiện rất nhanh chóng và với chi phí sàng lọc rất thấp. Người bệnh được sàng lọc bằng phương pháp cơ bản qua thăm khám lâm sàng, siêu âm vú, chụp Xquang tuyến vú và kết hợp xét nghiệm tế bào học, sinh thiết kim nhỏ. Thông thường thời gian tiến hành sàng lọc cơ bản sẽ có kết quả trong vòng 1- 2 giờ.
Trong thời gian xảy ra đại dịch Covid-19 vừa qua, Trung tâm ghi nhận có nhiều trường hợp người bệnh đến khám và phát hiện ung thư vú khi bệnh tiến triển sang giai đoạn muộn vì e ngại và sợ không đi khám, sàng lọc để được chẩn đoán và điều trị kịp thời khi bệnh ở giai đoạn sớm. Điều này gây ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị.
Hình ảnh siêu âm vú của bệnh nhân vào tháng 6/2021 và tháng 1/2022 (Ảnh: BVCC).
Trường hợp bệnh nhân V. T. O. 45 t.uổi, quê ở Hải Dương là một ví dụ. Bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị khi bệnh chuyển giai đoạn muộn do điều kiện gia đình và do e ngại dịch bệnh Covid-19.
Tự sờ thấy có u ở vú phải từ trước đó, nhưng đến tháng 6/2021 chị O. mới đi khám tại Bệnh viện K Trung ương. Tại đây, chị được chẩn đoán xác định là ung thư vú phải di căn hạch nách phải, giai đoạn IIIa. Nhưng do tình hình dịch bệnh Covid-19 và điều kiện gia đình thời điểm đó nên chị đã trì hoãn không đi khám nên không được điều trị bệnh ung thư.
Đến tháng 1/2022, thấy u vú phải, vùng nách phải sưng to nhiều, đau vùng vú, nách phải, cột sống nên chị đến khám tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai.
Tại đây, bệnh nhân được thăm khám lâm sàng và phát hiện thấy có tổn thương khối u lớn 1/2 trên vú phải, thâm nhiễm da vùng u, kém di động kèm theo có nhiều hạch hố nách phải, chắc, kém di động. Bệnh nhân được làm các xét nghiệm đ.ánh giá khối u vú nguyên phát, kiểm tra toàn thân đ.ánh giá giai đoạn bệnh để lập kế hoạch điều trị bằng siêu âm, X-quang và chụp PET/CT toàn thân, xét nghiệm m.áu…,ThS. BSCK II Thiều Thị Hằng cho biết.
Bệnh nhân được chẩn đoán bị ung thư vú phải di căn hạch nách phải, xương (T4cN2M1), giai đoạn IV.
Như vậy sau một thời gian trì hoãn không đến khám bệnh, bệnh ung thư vú của bệnh nhân đã tiến triển, khối u vú to lên về kích thước, hạch nách lớn nhanh và có tổn thương di căn xương (di căn xa). Bệnh chuyển sang giai đoạn IV (giai đoạn cuối).
Ở giai đoạn bệnh này, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng hóa trị toàn thân trước và đ.ánh giá sau các liệu trình để quyết định phương pháp điều trị tiếp theo.
Hiện nay để thích ứng với tình hình dịch bệnh Covid-19 và đảm bảo việc khám sàng lọc, chẩn đoán sớm và tiếp nhận điều trị người bệnh ung thư kịp thời, Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh Mai luôn đảm bảo các biện pháp an toàn phòng dịch theo quy định và vẫn tiến hành khám, tiếp nhận người dân đến khám và điều trị 24/7. Người dân khi đi khám bệnh cần thực hiện đầy đủ biện pháp 5K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế) để đảm bảo an toàn phòng dịch.
Tái tạo bàng quang từ ruột non trị ung thư
Nam bệnh nhân 37 t.uổi đã mổ khối u bàng quang 5 năm trước, nay ung thư tái phát buộc phải cắt toàn bộ bàng quang ngăn di căn.
Ba tháng gần đây, anh thường xuyên đau tức bụng dưới, tiểu m.áu nhiều lần. Cơ sở y tế gần nhà chẩn đoán anh bị ung thư bàng quang tái phát, cần đến bệnh viện chuyên khoa để điều trị. Do dịch Covid-19 tại TP HCM bùng phát, việc điều trị bị gián đoạn, sức khỏe bệnh nhân ngày càng suy yếu.
Ngày 5/10, bác sĩ Nguyễn Vĩnh Bình, Trưởng khoa Ngoại tiết niệu, Bệnh viện Xuyên Á, cho biết tình trạng lúc nhập viện của bệnh nhân rất nguy kịch, biến chứng suy thận cấp, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, thiếu m.áu nặng do mất m.áu kéo dài.
Các bác sĩ điều trị những biến chứng, soi bàng quang, chụp cắt lát vi tính (MSCT) hệ niệu 160 lát cắt để đ.ánh giá giai đoạn của bệnh. Hướng điều trị tối ưu đưa ra cho bệnh nhân là phẫu thuật cắt bàng quang tận gốc nhằm ngăn chặn nguy cơ ung thư di căn; đồng thời tạo một bàng quang nhân tạo làm nơi chứa nước tiểu để đảm bảo hoạt động cơ thể bình thường sau này.
Sau một tuần điều trị biến chứng nhiễm khuẩn, lọc m.áu hai lần và truyền bù m.áu, bệnh nhân đủ điều kiện để tiến hành phẫu thuật. Các bác sĩ đã phẫu thuật nội soi cắt bỏ bàng quang, tuyến t.iền liệt, túi tinh, hai ống dẫn tinh, nạo vét toàn bộ hạch để loại bỏ hoàn toàn khối u. Cuối cùng, các bác sĩ lấy một đoạn ruột non khoảng 60 cm của bệnh nhân tạo hình thành túi chứa nước tiểu. Bàng quang tái tạo này được nối với niệu đạo, bệnh nhân vẫn có thể đi tiểu theo đường tự nhiên.
Theo bác sĩ Minh, trong suốt 8 giờ phẫu thuật, ê kíp gặp không ít bất lợi như bàng quang quá to gây khó khăn cho ca mổ nội soi. Trong khi đó, mạc treo ruột (phần gắn ruột vào thành bụng) ngắn khiến việc tạo hình khó khăn; các mạch m.áu lớn vùng chậu teo nhỏ do di chứng bại liệt của bệnh nhân khi còn nhỏ, nếu bất cẩn có thể cắt đứt nguồn mạch m.áu nuôi hai chi dưới.
Hiện, sau hai tuần hậu phẫu, bệnh nhân không còn mệt mỏi, tiểu m.áu hay phải chịu đựng những cơn đau rát, buốt h.ành h.ạ khi đi tiểu. Bệnh nhân ăn uống ngon miệng hơn, cơ thể hồi phục và dần thích nghi với bàng quang mới.
Bệnh nhân (ngồi) chụp ảnh cùng các bác sĩ điều trị trước khi xuất viện. Ảnh: Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á
Đây là ca điển hình được tái tạo bàng quang từ ruột non, sau khi phải cắt bàng quang để điều trị ung thư tại Bệnh viện Đa khoa Xuyên Á. Trước đây, với các ca tương tự, khi chưa có kỹ thuật tạo hình bàng quang thay thế bằng ruột, bác sĩ phải mở hai niệu quản ra da. Như vậy, bệnh nhân phải mang bên người hai túi dẫn lưu niệu quản chứa chất thải, ảnh hưởng sinh hoạt và có nguy cơ n.hiễm t.rùng.
Ung thư bàng quang là bệnh phổ biến thứ 7 trong các bệnh ung thư của nam giới và thứ 10 ở cả hai giới. Tại Việt Nam, theo thống kê của Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) năm 2020, ung thư bàng quang đứng thứ 20 về số lượng bệnh nhân được phát hiện trong tất cả loại ung thư, bác sĩ Minh thông tin.
Triệu chứng thường gặp của ung thư bàng quang là đi tiểu ra m.áu. Người tiểu m.áu nên đi khám ngay, nhằm chẩn đoán sớm ung thư bàng quang và điều trị kịp thời.